Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trí Huệ Thấy Công Đức Của Pháp Giới

29 Tháng Ba 202418:38(Xem: 385)
Trí Huệ Thấy Công Đức Của Pháp Giới

Trí Huệ Thấy Công Đức Của Pháp Giới

Nguyễn Thế Đăng

 
Chánh Kiến 1


Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang NghiêmTrang nghiêm nghĩa là trang nghiêm bằng công đức của Phật Tỳ Lô Giá Na.

Pháp giới được trang nghiêm bằng công đức của chư Phật, chư Bồ tát. Trong phần giảng về Bồ đề tâm cho Đồng tử Thiện Tài, trước khi cho Đồng tử vào lầu các, vào pháp giớiĐức Di Lặc nói:

…Như có bửu châu tên là Tự Tại vương ở châu Diêm Phù Đề, cách mặt trời mặt trăng bốn vạn do tuần, hết thảy sự trang nghiêm của mặt trời mặt trăng đều hiện hình bóng đầy đủ trong đó. Cũng vậy, công đức thanh tịnh của đại Bồ tát phát Bồ đề tâm ở trong sanh tửchiếu pháp giới hư không, tất cả công đức của Phật tríđều hiện trong đó”.

Tóm lại, “Thiện Tài thấy lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng có tất cả cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn như vậy”, đó là thấy công đức trong pháp giới của tất cả các bậc giác ngộ.

 

Công đức trang nghiêm pháp giới của tất cả các bậc giác ngộ là có sẳn, nhưng tại sao chúng takhông thấy? Vì chúng ta chưa đủ thiện căn công đức và trí huệ thấu rõ để vào được pháp giới mà thấy. Và thấy là do trí huệ Bát nhã mà thấy, trí huệ ấy thấy như thế nào. Để học bản chất và ý nghĩacủa cái thấy pháp giới, đoạn kinh tiếp theo trong phần Đồng tử Thiện Tài vào lầu các của Đức DiLặc giảng dạy điều đó.

 

Lúc đó vì được sức ghi nhớ chẳng quên, vì được mắt thanh tịnh thấy mười phương, vì được trí vô ngại khéo quan sát, vì được trí tự tại của Bồ tát, vì được trí hiểu rộng lớn của các Bồ tát đã nhập trí địa, nên Thiện Tài nơi mỗi mỗi sự vật trong tất cả lầu các đều thấy vô lượng cảnh giới trang nghiêm tự tại không thể nghĩ bàn như vậy. 

Như người ở trong mộng thấy đủ thứ cảnh vật, người thân cho đến các cung điện trời… khi thức dậy bèn biết là cảnh mộng, nhưng có thể nhớ rõ không quên mất. Cũng vậy, nhờ thần lực Bồ tát Di Lặc gia trì, cho nên biết các pháp trong ba cõi đều như mộng. Vì diệt trừ tâm tưởng hèn kém của chúng sanh, vì được hiểu biết rộng lớn không chướng ngại, vì an trụ cảnh giới cao trổi của các Bồ tát, vì nhập vào trí phương tiện không thể nghĩ bàn nên Thiện Tài thấy được cảnh giới tự tại như vậy”.

Đây là cái thấy của Bồ tát “đã nhập trí địa”, nghĩa là đã vào Mười Địa.

Như kinh nói, cái thấy ấy là thấy trong mộng, tất cả cảnh thấy được đều là cảnh mộng. Cái thấy của Bồ tát không phải là thấy những sự vật cứng đặc, có thực thể mà thấy như mộng, như huyễn. Đây là cái thấy của trí huệ Bát nhã, tức là trí huệ thấu rõ tánh Không.

Ví như có người sắp mạng chung, thấy tướng thọ báo theo nghiệp của mình. Người làm nghiệp ácthì thấy tất cả cảnh khổ nơi địa ngụcngạ quỷ, súc sanh… Người làm nghiệp thiện thì lập tức thấy tất cả các cung điện trời, vô lượng thiên chúngthiên nữ, cung điện vườn rừng trang nghiêmtốt đẹp. Dầu thân chưa chết mà do nghiệp lực thấy những sự việc như vậy. 

Đồng tử Thiện Tài cũng như vậy, nhờ nghiệp lực Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn mà thấy được tất cả cảnh giới trang nghiêm”.

“Nghiệp lực Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn” gồm lại thành hai sự tích tập. Tích tập công đức là các hạnh ba la mật, các hành động thiện lành trong thế gian; và tích tập trí huệ là chứng nhập tánh Không. Tất cả cảnh giới trang nghiêm Bồ tát thấy trong pháp giới là nhờ hai tích tập này.

 

Ví như có người, bị quỷ nhiếp trì thấy các sự việc, tùy người hỏi gì đều trả lời được. Đồng tử Thiện Tài cũng lại như vậy, do trí huệ Bồ tát nhiếp trì, thấy tất cả sự trang nghiêm ấy, nếu có ai hỏi đều trả lời được. 

Ví như có người được rồng nhiếp trì, tự cho mình là rồng, vào Long cung trong thời gian ngắn mà tự cho rằng đã trải qua nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Đồng tử Thiện Tài cũng lại như vậy, nhờ trụ trì trí huệ Bồ tát, nhờ Bồ tát Di Lặc gia trì, nên trong thời gian ngắn mà cho là vô lượng kiếp”.

Ví như có người do quỷ, rồng nhiếp trì mà tâm họ mở rộng ra về không gian, “thấy các sự việc” và về thời gian, “một ít thời gian mà cho là vô lượng kiếp”. Tâm Bồ tát cũng giống như vậy, nhờ trụ trìtrí huệ Bồ tát, nhờ sự gia trì của Bồ tát Di Lặc mà thấy được chiều sâu chiều rộng của lầu các, tức là của pháp giới.

Những đoạn kinh được trích ở trước và ở sau đều cho thấy một sự thật mà đạo Phật thường dạy: “Tất cả duy tâm tạo”, “Ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức”. Nghĩa là cái thấy không gianthời gian, đều do tâm tạo.

Vậy thì đạo Phật dạy người ta tu tâmTu tâm là làm cho tâm thanh tịnh, mở ra cả chiều rộng và chiều sâu. Tùy theo tâm thanh tịnh đến đâu, sâu rộng đến đâu thì sự trang nghiêm vô biên của vũ trụ (pháp giới) được thấy đến đó.

 

Ví như Phạm thiên cung tên là Trang nghiêm tạng, ở trong đó đều thấy tất cả sự vật của ba ngàn thế giới, chẳng tạp loạn nhau. Đồng tử Thiện Tài cũng như vậy, ở trong lầu các, thấy khắp tất cả cảnh giới trang nghiêm, đủ thứ khác biệt, mà chẳng tạp loạn nhau. 

Ví như Tỳ kheo nhập biến xứ định, hoặc đi đứng ngồi nằm, tùy theo định đã nhập, cảnh giới ấy hiện tiềnThiện Tài cũng như vậy, nhập lầu các này, tất cả cảnh giới đều hiện rõ. 

Ví như có người thấy thành Càn thát bà ở trong hư không, đầy đủ trang nghiêm, đều thấy biết rõ, không chướng ngại

Ví như cung điện của thần Dạ xoa với cung điện nhân gian, cùng ở một chỗ, mà chẳng tạp loạn nhau, đều tùy theo nghiệp mà thấy chẳng đồng. 

Ví như biển cả, ở trong đó đều thấy tất cả hình sắc ba ngàn thế giới

Ví như nhà huyễn thuật, nhờ huyễn lực hiện những sự huyễn. Đồng tử Thiện Tài cũng lại như vậy, do nhờ lực oai thần của Bồ tát Di Lặc, do lực huyễn trí không nghĩ bàn, do nhờ huyễn trí biết được các pháp, do được lực tự tại của các Bồ tát nên thấy tất cả cảnh giới tự tại trang nghiêm trong lầu các”.

“Nơi mỗi mỗi sự vật trong tất cả lầu các đều thấy vô lượng cảnh giới trang nghiêm. Trong Phạm thiên cung tên là Trang nghiêm tạng đều thấy tất cả sự vật của ba ngàn thế giới, đều chẳng tạp loạn nhau”: đây là cảnh giới sự sự vô ngại, trong một sự vật thấy tất cả sự vật, chẳng tạp loạn nhau. Như màn lưới ngọc của trời Đế thích, mỗi viên ngọc đều phản chiếu tất cả hình ảnh có trong tất cả các viên ngọc khác, mà chẳng tạp loạn nhau.

“Ví như Tỳ kheo nhập biến xứ định…” Định biến xứ là quán tất cả hiện hữu là một biến xứ (kasina) đất, nước, lửa, hư không, màu sắc, ánh sáng… và biến xứ ấy bao trùm tất cả hiện hữu. Điều này cho thấy “tất cả duy tâm tạo”.

Cung điện Càn thát bà thấy trong hư không: đây là một thí dụ thường thấy trong các kinh để nói lên sự huyễn hiện không thật của cái thấy dù nghiệp tốt của Bồ tát hay nghiệp xấu của chúng sanh. Thấy trong hư không còn nói lên mọi sự xuất hiện đều “có” trên nền tảng tánh Không.

“Ví như cung điện thần Dạ xoa…”: các cái thấy do các nghiệp tốt xấu khác nhau nhưng không loại trừ lẫn nhau. Vũ trụ ba cõi là cái thấy của chúng sanh, nhưng là pháp giới giác ngộ của chư Phật.

“Ví như biển cả, trong đó đều thấy tất cả hình sắc của ba ngàn thế giới”: trong kinh gọi cái này là Hải ấn tam muội.

“Ví như nhà huyễn thuật, nhờ huyễn lực hiện các sự huyễn…” Cũng vậy, một cảnh giới tạo thành pháp giới vũ trụ được xuất hiện là nhờ huyễn lực của chính pháp giới, tức là của Tỳ Lô Giá Na, vị Phật pháp giới, vị Phật vũ trụ.

Một vị Bồ tát thấy pháp giới được đến đâu là do “lực huyễn trí” của Bồ tát ấy tương ưng được với huyễn lực Tỳ Lô Giá Na đến đâu. Với Đức Di Lặc, một Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, thì sự tương ưng ấy gần như hoàn toàn, nên lầu các của ngài đại diện cho toàn bộ pháp giới. Cũng cùng một pháp giới, một vũ trụ nhưng thấy thành sanh tử khổ đau là do tâm bất tịnh của chúng sanh, thấy các cảnh giớitự tại trang nghiêm là do tâm thanh tịnh của Bồ tát.

“Huyễn trí biết được các pháp”: Huyễn trí là trí huệ thấy các pháp là vô tự tánhnhư huyễn như mộng, cũng tức là trí huệ thấy biết tánh Không.

Đồng tử thấy được tất cả cảnh giới trang nghiêm trong lầu các là nhờ lực huyễn trí của Bồ tát, có thêm lực oai thần (lực huyễn trí) của Bồ tát Di Lặc mà thấy được mọi xuất hiện trong pháp giới là như huyễn.

Tóm lại, huyễn trí để đi vào căn bản của Đại thừa: không có ngã ở bên trong (vô ngã) và không có pháp ở bên ngoài (vô pháp). Nhờ huyễn trí nên thấy mà không ô nhiễm, thấy mà vẫn tự tạigiải thoát.

 

Bấy giờ Bồ tát Di Lặc liền nhiếp thần lực, vào trong lầu các, khảy móng tay ra tiếng, bảo Thiện Tàirằng: 

Thiện nam tử, hãy dậy! Pháp tánh như vậy. Đây là sự hiện tướng của trí Bồ tát biết các pháp nhân duyên tụ tậpTự tánh như vậy, như huyễn, như mộng, như bóng, như hình, đều không thành tựu”.

Pháp tánh là bản tánh của tất cả các pháp, bản tánh của pháp giớiBản tánh của pháp giới là tánh Không và hiện tướng của nó cũng là tánh Khôngnhư huyễn, như mộng, như bóng, như hình.

Bồ tát nhập pháp giới thì có huyễn trí nên thấy tất cả công đức trang nghiêm của pháp giới “như huyễn, như mộng, đều không thành tựu”. Thế nên công đức gắn liền với tánh Không chứ không phải là phước đức do nhân quả nghiệp báo mà thành. Công đức biểu hiện có bản tánh là tánh Không vô tự tánhnhư huyễn như mộng, nên công đức là giải thoát, không ràng buộctự do.

Như vậy có thể thấy rằng công đức của pháp giới chính là tính cách sự sự vô ngại của pháp giớiSự sự vô ngại là sự hoạt động tương tác, tương nhiếp, tương nhập vô tận của tất cả sự vật như là tánh Không vô tự tánh ở cấp độ nhỏ nhất của không gian là vi trần và nhỏ nhất của thời gian là sát na, niệm. 

Nhờ huyễn trí mà thấy pháp giới sự sự vô ngại. Cái thấy sự sự vô ngại này không những không ràng buộc người thấy vào thế giới, và vũ trụ thường tục, mà chính cái thấy như huyễn như mộng này đưa người ta vào giải thoáttự do.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 60)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 187)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 227)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 240)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 303)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 225)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 279)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 354)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 340)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 423)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 650)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 507)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 515)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 615)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 787)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 876)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 890)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 878)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 761)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 735)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 745)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 842)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 862)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 965)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 749)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 639)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 736)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 851)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 742)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 738)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 850)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 882)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 850)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 903)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 937)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 928)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1126)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 988)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1711)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1098)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1232)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 972)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1239)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1145)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1153)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1309)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1595)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2069)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1130)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1382)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1122)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 968)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1076)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1119)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1543)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1307)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1322)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1041)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1196)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant