Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tam Qui Ngũ Giới

27 Tháng Tư 201509:00(Xem: 6449)
Tam Qui Ngũ Giới
TAM QUI NGŨ GIỚI

HT Hư Vân
Dịch Việt: Kiến Châu - Như Thủy - Hạnh Đoan


Tam Qui Ngũ GiớiTâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo. Nếu theo vọng niệm điên đảo thì ra sáu cõi phàm, còn không chạy theo thì sẽ vào bốn cõi thánh. Thường quán sát sẽ thấy thánh hay phàm đều do tâm uế hay tịnh mà hiện. Tâm phàm phu xấu uế khiến hiện ra sáu đường thiện ác tội phước. Bốn cõi thánh do tâm thanh tịnh tạo thành nên uy đức tự tại quang minh, phước tướng dung mạo từ bi.

Khổ hay vui đều do tâm. Quý vị tự tạo nghiệp rồi thọ báo. Muốn biết ở cõi thánh hay phàm nhìn lại lòng mình sẽ rõ.

Phàm phu ngu mê chẳng hiểu tất cả do tâm tạo nên gặp nghịch cảnh thì trách trời oán người, gặp thuận cảnh thì kiêu căng, dương dương tự đắc. Hoặc cả đời làm thiện mà chiêu quả ác nên khởi tâm nghi, hay làm ác lại được hưởng quả lành nên hủy báng nhân quả.

Phải hiểu lý nhân quả rất thâm sâu. Sau khi ta gieo nhân, quả nào chín mùi thì tới trước. Đời nay tuy mình tạo nghiệp lành mà bị chiêu quả xấu thì phải hiểu là nhân ác trong quá khứ đã hội đủ duyên, đã đến lúc chín mùi nên quả trổ trước thì mình phải lãnh thọ. Còn nhân lành đời nay gieo do quả chưa chín nên hiện tại chưa được hưởng. Nếu tin sâu, hiểu rõ điều này thì sẽ không khởi tâm nghi. Từ vô thủy mê muội ta tạo biết bao tội nghiệp oan khiên sâu nặng, bây giờ quả chín tới lúc nó trổ thì ta phải nhận không thể trốn tránh. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tất cả chúng sinh sinh tử triền miên, vì không biết chân tâm thường trụ thể tánh tịnh sáng, do sống với vọng tưởng nên mới bị luân hồi.”

Muốn thoát khổ ta phải làm sao? Không muốn thọ báo trong sinh tử thì phải tịnh hóa vọng tưởng. Vọng tưởng được tịnh rồi thì luân hồi dừng. Vì vậy tâm mê thì gọi chúng sinh, tâm giác gọi là Phật. Phật và chúng sinh khác nhau ở mê và ngộ. Phải biết tâm tánh diệu minh sáng suốt này ai cũng có. Phàm phu tuy có nhưng giống như vàng còn nằm trong mỏ bị đất cát phiền não bao phủ, nên không thể dùng được. Còn Phật do nhiều kiếp tu hành, cát đá lậu hoặc đã được lọc sạch thuần là vàng ròng tinh khiết nên đại dụng vô cùng, vì vậy mà được gọi là Thế Tôn, đấng Giác ngộ viên minh, vượt khỏi chướng ngại. Ta muốn tu thành Phật, trước phải xem nhân phát tâm của mình ra sao và phải trừ tận gốc phiền não. Gốc phiền não nếu sạch thì Phật tánh hiện. Nếu nhân tu không chánh thì phải chiêu quả báo cong vạy.

Bước tập tu đầu tiên là phải Qui y Tam bảo. Các điều ác không làm, chỉ làm toàn điều thiện. Rồi từ đó tu gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nếu không gieo nhân khổ thì quả khổ sẽ tiêu, vượt thoát ba đường khổ, siêu thăng cõi lành, nhập Phật thừa. Đây là nền tảng cho người tu Phật. Tam qui Ngũ giới là bờ bến của người đời, là diệu pháp ban vui cứu khổ. Tam quiquy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Qui y Phật: Phật là đấng giác ngộ hằng an lạc, xa rời khổ. Ngài hướng dẫn chúng sinh thoát mê về giác, vì thế ta nên quy y Ngài, hành giáo pháp Ngài để thoát khổ. Phật Thích Cagiáo chủ cõi Ta bà nên bước đầu tiên là phải quy y Phật.

Qui y Pháp: Tức nương theo pháp môn Phật truyền dạy, ba đời chư Phật đều hành theo pháp này mà thành tựu vô lượng công đức thanh tịnh. Nay ta muốn qui về nguồn cội, tịnh hóa thân tâm, dẹp trừ cấu uế thì phải qui y Pháp.

Qui y Tăng: Chánh pháp phải có người gánh vác hoằng truyền, xả thân vì đạo, xiển dương Phật pháp, dùng văn, tu, tư chứng quả thành Phật. Nếu Phật pháp không người thuyết giảng thì khó lãnh hội. Phật pháp thâm sâu khó hiểu phải nhờ chư Tăng giảng giải, nên ân đức các ngài rất lớn vì vậy phải qui y Tăng.

Tam bảo có ba: Nhất thể Tam bảo, Biệt tướng Tam bảoTrụ trì Tam bảo.

Nhất thể Tam bảo: là thể của nhất tâm. Phật là đấng giác ngộ, một niệm linh minh, tâm sáng suốttự tánh nhất thể Phật bảo. Phật đầy đủ ba đức: Phật, Pháp, Tăng.

Pháp còn nghĩa là quĩ trì, là gìn giữ qui tắc khuôn phép. Tự tánh nhất thể Tam bảo có thể gìn giữ khuôn phép của thế gianxuất thế gian.

Tăng là một đoàn thể tu sĩ hòa hợp. Tâm giác có khả năng hành trì tất cả pháp. Tâm là pháp, muôn pháp đều qui về tâm. Tâm đầy đủ Phật Pháp Tăng nên có tên là Nhất thể tam bảo. Chúng sinh mê tâm hướng ngoại tìm cầu nên trôi lăn trong sinh tử. Phật nhờ giác tâm này nên chứng được bồ đề.

Biệt tướng Tam bảo: Vì danh tướng của Phật pháp tăng không đồng. Phật là giác ngộ bản tâm, thấu đạt thật tướng, gọi là tự giác. Dùng pháp tu chứng này giác ngộ cho tất cả chúng sinh, gọi là giác tha. Tự giác giác tha đều đầy đủ, gọi là giác hạnh viên mãn. Ba đức này tròn đầy nên thành Phật. Đây là Biệt tướng Phật bảo.

Phật tùy cơ thuyết pháp kinh, luật, luận khác nhau là Biệt tướng Pháp bảo. Theo giáo lý tu hành trình tự tu chứng không đồng, gọi là Biệt tướng Tăng bảo.

Trụ trì Tam bảo: Sau khi Phật nhập diệt, tượng Phật dù được làm bằng xi măng, gỗ, thạch cao hay tranh vẽ ... đều là ruộng phước cho chúng sinh. Nếu biết cung kính hình tượng như Phật con tại thế thì công đức không thể nói hết. Vì trụ trì không tuyệt mất nên gọi là Trụ trì Phật bảo.

Tất cả kinh điển chép lời dạy của Phật được lưu truyền giáo hóa chúng sinh không ngừng, khiến chúng sinh hành trình theo đó, ly khổ được vui, vì vậy nên gọi là Trụ trì pháp bảo.

Người xuất gia cạo tóc, mặc pháp phục Như Lai, xiển dương đạo pháp, hóa độ chúng sinh, nối tiếp hạt giống Phật, là Trụ trì Tăng bảo.

Trụ trì, Biệt tướngNhất thể ... đều được gọi là bảo (quí báu) vì không bị pháp thế gian làm tổn hại hay phiền não làm nhiễm ô. Bảy báu thế gian như vàng, bạc, lưu ly, san hô, xà cừ, mã não, hổ phách được coi trọng, song hưởng dụng một thời gian rồi cũng hết, vì chúng chỉ giúp cho lúc sống chứ không thể độ tự. Thế nhưng Tam bảo có thể giúp chấm dứt vô biên sinh tử, khiến người xa lìa khổ não rầu lo, được hạnh phúc an vui mãi.

Tam bảo. tuy gọi nhiều tên nhưng xuất pháp từ nhất tâm, vì tất cả do tâm tạo. Tâm nhiếp thọ tất cả, vốn viên mãn đầy đủ giống như viên ngọc như ý. Vì vậy mới nói là Tự qui y Phật, Tự qui y pháp, Tự qui y tăng. Chứ không hề nói qui y tha, là tựa nương bên ngoài.

Qui, nghĩa là xoay vào, là quay về nguồn cội. Sáu căn chúng sinh xuất phát từ một tâm, vì bỏ gốc chạy theo sáu trần, nên phải thu nhiếp sáu căn quay về tâm, nên gọi là qui mạng. Vì vậy qui y cũng có nghĩa là qui mạng.

Y, là y theo, nương theo. Do chúng sinh chạy theo âm thanh sắc tướng nên bị trôi lăn trong biển khổ không có chỗ nương. Nhờ chọn Tam bảo làm thầy nên có thể thoát u mê, phát tâm bồ đề, hành đạo tu giác, cho đến khi thành Phật.

Qui y Tam bảo xong thì phải y theo pháp mà tu hành để thoát khỏi sinh tử, thoát khỏi phiền não trói buộc của thế gian. Bước nhập môn đầu tiên, ngoài năm giới cấm ra không còn phương pháp trợ giúp nào khác. Do vậy mới có câu: «Nếu không giữ năm giới thì đường sinh lên làm trời người cũng bị cắt đứt»

Do vậy mà giới là nền tảng quan trọng giúp tạo điều thiện, phế bỏ hạnh ác, là cội nguồn của đức hạnh, là phương cách giúp người ta siêu phàm nhập thánh. Nhân giới sinh định. Từ định sinh huệ. Nhờ giới, định, huệ mà thành Chánh giác. Nên nói: «Giới là cội gốc của đạo bồ đề vô thượng.» Phật phương tiện khai mở pháp môn. Đầu tiên thuyết Tam qui y, tiếp đến dạy Ngũ giới, chế ra giới Đại thừa, Tiểu thừa v.v... Do căn cơtâm tánh chúng sinh không đồng nên giới có từ cạn đến sâu, từ thô đến tế nhưng cứu cánh thì không khác.

Năm giới: không sát, đạo, dâm, vọng, không dùng các chất gây nghiện làm thần trí hôn mê. Năm giới này là căn bản, bắt buộc đệ tử Phật phải học và tuân giữ khi nhập môn. Đây là cửa ngõ đưa đến thành tựu. Năm giới này là điều phải học, phải hành, phải truyền bá. Nam nữ cư sĩ đều phải hành trì. Năm giới này tạo nên vô lượng công đức. Vì vậybước đầu tiên người sơ cơ học Phật phải qui ythọ trì ngũ giới. Nền tảng này không thể thiếu.

Năm giới này nhà Nho gọi là Ngũ thường: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nghĩa là, người nhân từ thì không giết hại. Người nghĩa khí thì không trộm cắp. Người có lễ nghĩa thì không tà dâm. Người trí không dùng chất say gây nghiện. Người tín không nói láo.

Người Phật tử giữ tròn năm giới thì không muốn hoàn toàn cũng thành người hoàn toàn, không mong thành nhân đức cũng thành nhân đức. Không cầu lễ nghĩalễ nghĩa tự thành, tâm trí tự nhiên sáng suốt, sống có uy tín. Nhân phẩm trở nên tôn quý, được người trọng vọng ái kính.

Giới thứ nhất là không sát sinh :

Mạnh Tử nói: « Nghe tiếng vật kêu la chẳng nỡ ăn. » Mạnh Tử còn nói thế, chúng tađệ tử Phật sao lại mê mờ, khởi tâm giết hại chiêu lấy quả khổ vô biên về sau? Do vậy mà Phật chế giới không sát sinh cốt để ngăn khổ cho chúng ta. Các đệ tử Phật nếu muốn hành đạo, bước đầu tiên phải nuôi dưỡng lòng từ, không được sát sinh. Nếu giữ giới này thì không còn bị luân hồi đền mạng. Ngoài việc ỷ mạnh hiếp yếu, tham mùi vị hoặc vì tiền tài kiếm sống mà sát sinh, giết hại phát xuất từ ác tâm. Nếu ta tạo nghiệp sát, cứ mạnh tay giết chóc thì tự kết oán cừu. Kinh Lăng Nghiêm nói: «Người chết thành dê. Dê chết thành người. Do ăn nuốt nhau mà quả báo vần xoay, ác nghiệp dẫy đầy, chiêu quả xấu không có ngày dứt.» Giết người phải đền mạng, giết súc vật cũng phải đền mạng.

Quý vị hãy nhớ tích xưa trong sử, ngày mà vua Tỳ Lưu Ly giết sạch dòng họ Thích Ca, đầu đức Phật cũng bị nhức thống thiết. Nguyên nhân từ đâu? Đó là vào kiếp quá khứ xa xưa, khi dòng họ Thích là dân làng chài, và đức Phật Thích Ca là một cậu bé trong làng chài đó. Khi dân chài bắt được con cá lớn sắp giết thịt ăn, cậu bé tiền thân Phật đã đùa nghịch lấy cây đánh vào đầu nó ba cái. Con cá lớn đó chính là tiền thân vua Lưu Ly. Khi sinh làm người đã giết sạch dòng họ Thích Ca, còn đức Phật cũng bị quả báo nhẹ là bị nhức đầu.

Chuyện này không thể không tin - báo ứng rất rõ ràngđáng sợ. Quý vị nên quán sát cho kỹ. Vì lý do này mà Phật cấm sát sinh.

Không những Phật từ bi với con người mà còn thương cả đến loài trùng kiến nhỏ nhoi. Bởi vì trong cái nhìn của Phật, tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Kinh Phạm Võng nói: «Tất cả nam nhân là cha. Tất cả nữ nhân là mẹ. Chúng sinh trong sáu đường trầm luân lưu chuyển từng làm cha mẹ quyến thuộc của nhau.» Vì vậy mà giết hại chúng sinh cũng xem như là giết hại cha mẹ.

Người đời không biết, không tin thuyết này nên mặc tình mặc sức giết hại, ăn nuốt lẫn nhau. Do vậy Thế Tôn mới chế giới cấm giết, bởi tất cả sinh linh đều có Phật tính. Quá khứ họ từng là cha mẹ chúng ta, tương lai cũng có khả năng thành Phật, sao ta lại dám giết hại? Chúng ta không nên có tâm giết hại.

Hiện nay nhân loại giao tranh đã chế đủ thứ vũ khí giết người, sát phạt nhau bất kể là trên không, đất bằng hay dưới nước. Lòng người ngày càng hiểm ác, đường đời ngày càng đảo điên. Chuyện tương sát tương tàn này đến bao giờ mới dứt. Nếu không tìm cách cứu vãn thì thế gian này sẽ thành biển khổ sục sôi lòng thù hận. Người trí nhìn không khỏi đau lòng. Quý vị phải cố gắng gìn giữ hòa bình, nổ lực cứu vãn nhân tâm mê muội, giúp mọi người trở về nẻo chính. Hãy trọng lòng nhân chứ đừng trọng vũ lực. Đừng tham đắm mùi vị ngon hay vì lợi mà sát hại. Đừng bao giờ khởi tâm sát. Nghiệp sát nếu ngưng thì kiếp họai sẽ dừng. Dưỡng lòng nhân là hành đúng đạo lý.

Quý vị cần quán sát cho kỹ, phải tin sâu nhân quả, phải hiểu nhân quả không sai như bóng theo hình. Nếu tin sâu nhân quả, thì trong lòng dù chưa sửa đổi, hạnh thiện cũng đã thành, vì mỗi khi hành động nghĩ suy, quý vị không thể không cân nhắc cho nên hành vi tự nhiên theo thiện.

Quý vị nên biêt những tai họa đời này là do nhân ác trong quá khứ quý vị đã gieo. Các tai nạn như binh đao, chiến tranh, lụt lội, hỏa tai, địa chân v.v... đều do quả đã chín mùi. Tới lúc trổ thì quý vị phải nhận. Nhân thiện chiêu quả thiện. Bằng chứng trong hai trận thế giới chiến vừa qua, chỉ có Hoa kiều ở Úc là được bình an. Vì sao? Vì trong tiền kiếp, họ không tạo nghiệp sát. Những ai thường gặp tai nạn là do ác nghiệp, biệt nghiệp chiêu cảm. Quý vị là Phật tử thì phải hiểu thấu suốt lý nhân quả khó nghĩ lường này. Nếu tin sâu nhân quả quý vị sẽ không dám giết hại. Nếu người trên thế gian này chịu giữ giới không giết hại thì tất cả vũ khí đều hóa ra vô dụng.

Giới đầu tiên, Phật cấm không sát sinh là vì muốn mọi ngườilòng nhân, sống biết thương người, hộ vật, tự giải khổ cho mình và người, ai ai cũng được sống trong cảnh an lạc.

Giới thứ hai là không trộm cắp:

Phật dạy ngay cả cây kim cọng cỏ, người không cho chớ lấy. Song chúng sinh chỉ thấy lợi trước mắt. Do tham tâm không biết đủ. Tội nặng nhất là trộm cướp và lạm dụng của mười phương tăng chúng. Ngay cả vật dụng của cha mẹ, sư trưởng không cho, chớ nên lấy, nếu lấy cũng là phạm tội nặng.

Nếu quý vị thâm tín nhân quả, chẳng phạm mảy tơ thì giới hạnh tự thành. Ai cũng được vậy thì đêm ngủ chẳng cần đóng cửa.

Giới thứ ba là không tà hạnh:

Người xuất gia thì ly dục hẳn, còn người tại gia thì không được tà dâm. Đối với vợ, chồng người nên giữ lòng ngay thẳng đoan chính. Do nhân duyên ái dụcchúng sinh trăm kiếp ngàn đời bị trầm luân. Cũng từ ái dục mà phát sinh trộm cắp, giết hại. Thường giữ giới không tà dục tự nhiên uy nghi, đức hạnh tự thành lập, gia đình vui hòa thủy chung.

Giới thứ tư là không nói láo:

Người nói láo thường vì hư danh lợi dưỡng. Cũng không được dối xưng mình chứng thánh. Đây là tội đại vọng ngữ, sẽ bị đọa địa ngục Vô gián. Người học đạo phải cẩn trọng. Giữ giới này thì được người kính và có uy tín lớn, không cầu danhdanh thơm tự đến, không cầu lợi mà phúc tự về.

Giới thứ năm là không uống rượu:

Bao gồm không dùng những chất có tính gây say, nghiện hay làm thần trí hôn mê. Người buôn bán các vật cấm này cũng bị quả báo 500 đời không có tay. Phạm giới này thần trí mê mờ ắt sẽ làm nhiều điều bại hoại mất tư cách, không những phạm thêm nhiều tội ác mà còn gieo nhân ngu si vô số kiếp về sau. Do vậy mà Phật cấm.

Nếu quý vị khéo điều tâm, không theo vọng tưởng, thì ác nghiệp chẳng sinh. Nhiếp tâm là giới. Nhờ giới sinh định. Do định có huệ. Quý vị khéo điều tâm thì tham sân si chẳng khởi, ác nghiệp chẳng còn tạo. Tự mình nhiếp tâm làm muôn hạnh lành, nhờ vậy công phu tăng tiến, bản thân được an lạc và còn gieo ảnh hưởng đến người khác, cảm hóa họ thực hành theo.

Nhờ hồng ân Phật, quý vị được qui y Tam bảo, được thọ năm giới cắm, giải khổ cho mình. Ân chư Phật lớn lao vô ngần, dẫu nát thân này, quý vị cũng chưa đền trong muôn một.

Nghe tôi giảng về Tam qui Ngũ giới rồi thì quý vị hãy thực hành. Hãy nghĩ xem, một thôn làng nếu trăm gia đình có được mười người giữ ngũ giới thì mười người này được an lạc. Trăm người tu thập thiện thì trăm người sống tương kính vui hòa. Nếu nhà nhà y theo pháp Phật tu hành thì nhà nhà đều nhân từ sống an.

Hành một việc lành là loại được một việc ác, tiêu đi một hình phạt. Cả nước thực hành điều lành thì cả nước an, được vậy thì vị nguyên thủ quốc gia không cần nhọc nhằn lao tâm trị nước mà vẫn có thể ngồi yên, toại hưởng thái bình. Thế nên, quý vị thọ trì năm giới không những làm theo lời Phật dạy mà còn giúp ích nhiều cho đất nước mình. Bản thân quý vị chẳng những là một công dân không phạm pháp mà còn đóng góp đức hạnh duy trì sự thịnh trị, bình an cho nước nhà .

Đây là những điều kiện căn bản , bắt buộc người Phật tử phải tuân theo, xin quý vị hãy kiên tâm hành trì, không những huân vào cho mình tập khí tốt, khiến hạt giống Phật được trưởng dưỡng càng sâu. Khi hạnh giải tương ưng đầy đủ thì quý vị đến giác ngạn.

Cầu mong quý vị từ đây về sau luôn có chánh kiến, chánh ngữ, chánh hạnh, chánh tư duy, hằng tinh tấn tu hành, không những quý vị tự tu mà còn khuyên bảo người khác tu để mình và người cùng dứt khổ. Được vậy thì ách nạn nào mà chẳng tiêu trừ. Thọ tam qui ngũ giới tức là quý vị chẳng làm điều ác, luôn hành điều lành. Khéo điều phục tâm. Được vậy thì quý vị đã tạo công đức vô lượng, quả Phật nhất định có kỳ.

(Thiền Viện Thường Chiếu)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2272)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33337)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6608)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6574)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3891)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5141)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11327)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30430)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 8005)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12235)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3307)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34836)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52294)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13105)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21886)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9644)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3116)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10411)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12800)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12820)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16263)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13865)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14348)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9232)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11772)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11297)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11542)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12687)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20742)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17683)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31877)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12039)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11844)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4343)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12776)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10358)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16439)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11806)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14822)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12044)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16871)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12747)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52183)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12663)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9941)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14519)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20161)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13805)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15417)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17507)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16818)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13500)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12504)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12076)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13302)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12553)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25619)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14569)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28360)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10312)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant