Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật

23 Tháng Mười 201000:00(Xem: 20094)
Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật


KINH DI LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT


Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch Việt

 

TÁN PHẬT

Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thệ trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sinh

Cầu Phật từ gia hộ

Tâm bồ đề kiên cố

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ giác

 

Ðấng Pháp Vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loài

Quy y trọn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.

 

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Ðiều-ngự Bổn-sư Thích Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thương Phật Bồ-tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế-giới đại-từ đại bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán-Thế-Âm Bồ tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát, Ðại Nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Ðại Hải-Chúng Bồ-Tát. (1 lạy)

 

TÁN LƯ HƯƠNG

Hương thơm vừa đốt lên

Pháp giới đều thấm nhuần

Hải hội chư Phật đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Chư Phật đều hiện thân

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

 

KỆ KHAI KINH

Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng

Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được

Nay con thấy nghe được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

 

Phật nói Kinh Di Lặc Hạ Sinh Thành Phật

Chính tôi được nghe một thời Ðức Bạt Già Phạm ở thành Vương Xá, với chúng đại Tỳ Kheo.

Bấy giờ Ngài đại trí Xá Lợi Phất là bậc tối thắng trong hàng pháp tướng, thương xót thế gian, từ toà đứng lên, hở y vai bên phải, gối bên phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kínhbạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Nay con có một ít chuyện muốn hỏi, xin Ðức Phật vui lòng nghe cho !

Phật bảo ông Xá Lợi Phất rằng : Tuỳ ngươi muốn hỏi, ta sẽ vì ông mà nói.

Bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất dùng bài kệ hỏi Ðức Thế Tôn rằng :

Ðại Sư đã thụ ký

Ðương lai Phật hạ sinh

Danh hiệuTừ Thị

Như trước sau Kinh nói.

Xin đấng Nhân Trung Tôn

Phân biệt lại lời tụng

Thần thông oai đức kia

Nay con muốn được nghe

Phật bảo Xá Lợi Phất !

Nên chí tâm nghe kỹ:

Ðương lai đấng Từ Thị

Vì người rộng tuyên nói

Bấy giờ nước biển lớn

Giảm dần đến ba ngàn

Hai trăm Du thiên na

Vì tỏ đường luân vương

Thiệm bộ châu ngang dọc

Cả vạn Du thiên na

Hữu tình ở trong đó

Xứ ấy đều xung mãn

Quốc độ đều giàu thịnh

Không hình phạt tai ách

Các con trai con gái

Ðều do nghiệp thiện sinh

Ðất không có gai gốc

Chỉ sinh cỏ xanh mềm

Chân đi đạp lên trên

Ví như vải tơ lụa

Tự nhiên mọc lúa thơm

Mùi ngon đều sung túc

Các cây sinh áo mặc

Tơ lựa đều trang nghiêm

Cây cao ba Câu xá

Hoa quả thường sung thực

Thời đó người trong nước

Ðều thọ tám vạn tuổi

Không có các bệnh khổ

Lìa não thường an lạc

Tướng đủ đều trang nghiêm

Sắc lực đều viên mãn

Người có ba thứ bệnh

Ăn suy già tiện lợi

Con gái năm trăm tuổi

Mới kết làm hôn nhân

Khi muốn đi tiện lợi

Ðất sé mà dung thụ

Mạng người sắp muốn hết

Tự đến rừng Thi lâm

Thành tên Diệu Tràng Tướng

Là đô của Luân Vương

Ngang mười hai do tuần

Rộng lượng bảy do tuần

Những người ở trong đó

Ðều từng trồng nhân lành

Thành này có thắng đức

Ở đây đều hoan hỉ

Lâu đài và khước địch

Dùng bảy báu làm nên

Ðóng khoá và môn đình

Ðều dung báu trang nghiêm

Tường vây quanh ao hào

Ðều làm bằng châu báu

Hoa đẹp đều sung mãn

Chim tốt đều bay đậu

Bảy hàng cây Ða la

Ðều mọc vây chung quanh

Các báu dùng trang nghiêm

Ðều treo lưới chuông báu

Vang ra những tiếng hay

Cũng như tấu bát âm

Nghe rồi sinh hoan hỉ

Nơi nơi có hồ ao

Ðầy tràn các thứ hoa

Vườn rừng mọc hoa thơm

Trang nghiêm cho thành quách

Trong nước có Thánh Chúa

Tên hiệu là Hướng Khư

Kim luân vương bốn châu

Giàu thịnh nhiều oai lực

Phước đức nghiệp của vua

Dũng mãnh gồm bốn binh

Bảy báu đều thành tựu

Ngàn con thảy đều đủ

Bốn biển đều thanh bình

Không có chiến binh đao

Chánh pháp dạy quần sinh

Giáo hoá đều bình đẳng

Vua có bốn kho tàng

Ðều ở trong các nước

Mỗi kho tàng đều có

Châu báu trăm muôn ức

Trong nước Yết Lăng Già

Có kho Băng Kiệt La

Trong nước Mật Si La

Có kho Bát Trục Ca

Kho Y La Bát La 

Ðể ở nước Kiện Ðà

Ở nước Ba Tư Nặc

Kho tên là Hướng Khư

Ðó là bốn kho tàn

Ðều thuộc vua Hướng Kh

Là của do trăm phước

Quả báo đều thành tựu

Quan đại thần giúp nước

Bà La Môn Thiện Tịnh

Bốn minh đều sáng suốt

Ða văn làm quốc sư

Bác thông các tạp luận

Thiện giáo hữu văn từ

Dạy giải các thanh minh

Không chẳng làu hiểu suốt

Cô gái tên Tịnh Diệu

Làm phu nhân đại thần

Tiếng khen tướng đoan nghiêm

Ai thấy đều vui mừng

Ðại trượng phu Từ Thị

Từ cõi trời Hỷ Túc

Sinh vào phu nhân kia

Mượn chỗ sinh thân mình

Bà mang thai đại Thánh

Ðược đầy đủ mười tháng

Ngày kia Từ Tôn mẫu

Ði đến vườn Diệu Hoa

Vào dạo vườn hoa đó

Chẳng ngồi cũng chẳng nằm

Sẽ vịn cành cây hoa

Chợt sinh đấng Từ Tôn

Khi đó đấng Tối Thắng

Ra bên hông phải mẹ

Như mặt trời tan mây

Khắp phóng đại quang minh

Chẳng nhiễm súc bào thai

Như sen vượt khỏi nước

Hào quang chiếu ba cõi

Ðều chiêm ngưỡng Ðại Từ

Ðương khi lúc giáng sinh

Thiên nhãn trời Ðế Thích

Tự thân rước Bồ Tát

Mừng gặp đấng Lưỡng Túc

Bồ Tát đương khi đó

Tự nhiên đi bảy bước

Mà ở dưới lót chân

Ðều mọc hoa sen báu

Xem khắp cả mười phương

Bảo các chúng trời người :

Thân ta đây cuối cùng

Vô sinh chứng Niết Bàn

Rồng mưa nước trong mát

Tắm gội thân Ðại Từ

Trời rải hoa đẹp lạ

Hư không gió nhẹ nhàng

Chư thiên mang lọng trắng

Cầm che Ðấng Từ Tôn

Ðều sinh tâm ít có

Giữ gìn cho Bồ Tát

Mẫu thân ẵm Bồ Tát

Ba mươi hai tướng tốt

Ðầy đủ các quang minh

Phụng trì trao từ mẫu

Ngự giá dâng xe vua

Ðều dùng báu trang nghiêm

Mẹ con đều lên xe

Chư thiên cùng đẩy xe

Ngàn thứ âm nhạc hay

Dẫn đường về hoàng cung

Tự Thị vào đô thành

Hoa trời rải như mưa

Ngày Từ Tôn giáng đản

Các phụ nữ mang thai

Thân đều được an ổn

Ðều sinh trai trí huệ

Thiện Tịnh cha Từ Tôn

Coi tướng con kỳ diệu

Ðủ ba mươi hai tướng

Lòng sinh đại hoan hỉ

Cha theo pháp chiêm đoán

Biết con có hai tướng :

Ở đời làm Luân Vương

Xuất gia thành Chánh Giác

Bồ Tát đã thành lập

Thương xót các quần sinh

Trong mọi khổ hiểm nạn

Luân hồi thường không ngừng

Sắc vàng quang minh sáng

Thanh âm như Ðại Phạm

Mắt như hoa sen xanh

Chi thể đều viên mãn

Thân dài tám mươi khửu

Vai rộng hai mươi khửu

Mặt rộng lượng nửa vai

Tướng trăng tròn đoan nghiêm

Bồ Tát biết mọi nghề

Khéo dạy thụ học ấy

Số trẻ nhỏ xin học

Tám vạn bốn ngàn người

Khi đó vua Hướng Khư

Kiến lập bảy tràng báu

Tràng cao bảy mươi tầm

Rộng khoảng sáu mươi tầm

Tràng báu tạo thành rồi

Vua phát tâm đại xả

Cho các Bà la môn

Thiết lập hội vô già

Khi đó các Phạm Chí

Số có một ngàn người

Ðược tràng báu đẹp đó

Khoảng chốc lát hư hoại

Bồ Tát thấy thế rồi

Nghĩ thế tục đều vậy

Sinh tử khổ trói buộc

Nghĩ cầu được xuất ly

Duy có đạo tịch diệt

Liền bỏ tục xuất gia

Trong sinh già bệnh chết

Cứu cho được thoát khỏi

Từ Tôn phát nguyện rằng :

Tám vạn bốn ngàn người

Ðều sinh tâm nhàm lìa

Cùng theo tu phạm hạnh

Lúc ban đầu phát tâm

Bỏ tục mà xuất gia

Ngay ở trong đêm đó

Thẳng lên ngôi Ðẳng Giác

Thời có cây bồ đề

Tên gọi là Long Hoa

Cao bốn Du thiên na

Um tùm xanh tươi tốt

Cành lá toả bốn bên

Che sáu Câu lư xá

Từ Thị Ðại Bi Tôn

Dưới cây thành Chánh Giác

Tối thắng nhất trong người

Ðủ tám tiếng phạm âm

Thuyết pháp độ chúng sinh

Khiến lìa các phiền não

Khổ và nơi khổ sinh

Tất cả đều trừ diệt

Hay tu Bát Chánh Ðạo

Lên bờ Niết Bàn kia

Vì các thanh tín sĩ

Nói đạo bốn Chân đế

Ðược nghe diệu pháp ấy

Chí thành mà phụng trì

Ở trong vườn Diệu Hoa

Các chúng như mây tụ

Ðầy trong trăm Do tuần

Quyến thuộc đều đầy dẫy

Vua Luân Vương Hướng Khư

Nghe pháp thâm diệu rồi

Xả hết các châu báu

Phát tâm xin xuất gia

Chẳng luyến tiếc cung điện

Chí cầu được thoát khỏi

Tám vạn bốn ngàn chúng

Ðều đi theo xuất gia

Lại tám vạn bốn ngàn

Ðồng tử Bà la môn

Nghe vua bỏ thế tục

Cũng đến cầu xuất gia

Trưởng giả chủ tạng thần

Tên gọi là Thiện Tài

Cùng với ngàn quyến thuộc

Cũng đến xin xuất gia

Nữ báu Tỳ Xá Khư

Và con các thị tùng

Tám vạn bốn ngàn người

Cũng đến cầu xuất gia

Lại hơn trăm ngàn số

Người thiện nam thiện nữ

Nghe Phật nói diệu pháp

Cũng đến cầu xuất gia

Ðấng hơn hết trời người

Ðại từ bi Thánh chúa

Khắp quán các tâm rồi

Bèn diễn nói pháp yếu

Bảo các người nên biết :

Từ Bi Thích Ca chúa

Dạy người tu chánh đạo

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc lấy hương tràng hoa

Phướng phan lọng nghiêm sức

Cúng dường Mâu Ni chúa

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc vật kim trầm thuỷ

Hương nê dùng bôi thoa

Cúng dường tháp Mâu Ni

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc quy Phật Pháp Tăng

Cung kính thường gần gũi

Nên tu các hạnh lành

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc ở trong Phật pháp

Thụ trì theo chỗ học

Khéo giữ không khuyết phạm

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc trong bốn phương Tăng

Cúng y phục ăn uống

Gồm cả thuốc thang hay

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc trong bốn thời chay

Và ở thần thông nguyệt

Thụ trì tám chi giới

Lại sinh trong pháp ta

Hoặc dùng ba thứ thông

Thần cảnh ký truyền dạy

Hoá đạo chúng Thanh Văn

Khiến trừ hết phiền hoặc

Hội đầu vì thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi sáu ức người

Khiến khỏi chướng phiền não

Hội thứ hai thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi bốn ức người

Khiến qua biển vô minh

Hội thứ ba thuyết pháp

Rộng độ các Thanh Văn

Chín mươi hai ức người

Khiến tâm khéo điều phục

Ba lần nói pháp rồi

Trời người đều thuần tịnh

Dẫn các chúng đệ tử

Khất thực ở trong thành

Ðã vào thành Diệu Tràng

Ðường xá đều nghiêm sức

cúng dường Phật vậy

Trời mưa hoa Mạn đà

Tứ vương và Phạm Vương

Cùng với các thiên chúng

Dâng hương hoa cúng dường

Ðấng Ðại Từ Bi Tôn

Ðại oai đức chư thiên

Tán rải y phục đẹp

Chung quanh khắp thành ấp

Chiêm ngưỡng Ðại y vương

Dùng báu đẹp hương hoa

Rải trên các đường xá

Dùng để đi ở trên

Ví như bông tơ lụa

Âm thanhtràng phan

Bày hàng hai bên đường

Trời người chúng Ðế Thích

Khen ngợi đấng Ðại Từ

Nam Mô Thiên Thượng Tôn

Nam Mô Sĩ Trung Thắng

Lành thay Bạt Già Phạm !

Hay thương xót thế gian

Có trời Ðại Bi Ðức

Ðương làm vua chúng ma

Quy tâm chắp tay lễ

Chiêm ngưỡng đức Ðạo Sư

Phạm Vương các thiên chúng

Quyến thuộc mà vây quanh

Ðều dùng tiếng Phạm âm

Xiển dương pháp vi diệu

Ở trong thế giới này

Phần nhiều A la hán

Từ bỏ nghiệp hữu lậu

Xa lìa khổ phiền não

Trời người chúng long thần

Càn Thát A tu la

La SátDược Xoa

Ðều hoan hỉ cúng dường

Khi đó các đại chúng

Dứt chướng trừ nghi hoặc

Vượt qua dòng sinh tử

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thời đó các đại chúng

Lìa trược bỏ của báu

Vô ngã, ngã sở tâm

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Thời đó các đại chún

Phá tan lưới tham ái

Viên mãn tâm vắng lặng

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Ðấng Từ Thị trời người

Thương xót loài hữu tình

Sống lâu sáu vạn tuổi

Thuyết pháp độ chúng sinh

Hoá đủ trăm ngàn ức

Khiến qua biển phiền não

Có duyên đều cứu vớt

Mời vào cõi Niết Bàn

Ðấng Từ Thị Ðại Bi

Sau khi vào Niết Bàn

Chánh pháp ở lại đời

Cũng đủ sáu muôn năm

Nếu ở trong pháp ta

Tin sâu mà thọ trì

Ðương lai ngày hạ sinh

Phụng thờ đấng Ðại Bi

Nếu có thông tuệ ấy

Nghe nói việc như thế

Ai chẳng khỏi ham vui

Nguyện gặp đấng Từ Thị

Nếu người cầu giải thoát

Mong gặp hội Long Hoa

Thường cúng dường Tam Bảo

Siêng tu đừng phóng dật.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn vì ông Xá Lợi Phấtđại chúng nói việc đương lai đức Từ Thị rồi. Lại bảo Xá Lợi Phất rằng : Nếu có người thiện nam thiện nữ nghe pháp nầy rồi, thọ trì đọc tụng, vì người khác diễn nói, theo như trong Kinh mà tu hành, dùng hương hoa cúng dường, viết chép Kinh điển, thì những người đó, đời đương lai sẽ được gặp đấng Từ Thị hạ sinh, ở trong ba hội được nhờ ơn cứu độ.

Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn nói bài kệ xong, Xá Lợi Phấtđại chúng hoan hỉ tin thọ phụng hành.

Ðại từ đại bi thương chúng sinh

Ðại hỉ đại xả cứu muôn loài

Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm

Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (108 lần)

Na Mô Di Lặc Tôn Phật. (108 lần)

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

 

HỒI HƯỚNG

Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng 

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sencha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.

 

Tam quy y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

 

Nguyện đem công đức nầy

Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh

Trên đền bốn ân nặng

Dưới cứu ba đường khổ

Nếu có ai thấy nghe

Liền phát tâm bồ đề

Khi xả báo thân nầy

Ðồng sinh về Cực Lạc.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12619)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14185)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10935)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10606)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11293)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12090)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13241)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13747)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33775)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11417)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 13034)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13153)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11716)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17997)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11522)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11949)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11624)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19074)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12658)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11447)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13238)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15879)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11942)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11790)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12922)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12748)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14053)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13065)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 13035)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13393)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12849)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12770)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11819)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11812)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12427)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12473)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19931)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12065)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12090)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16988)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12758)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15175)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16232)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12970)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12326)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 12010)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 12016)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13248)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16602)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13325)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12603)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11923)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19961)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11259)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11355)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10498)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11172)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11040)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10115)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11827)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant