Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Di Giáo

11 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 15116)
Kinh Di Giáo


KINH THẾ TÔN DI GIÁO


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389

Nguyên tác Hán ngữ [1]

Vào đời Dao Tần, ngài Cưu-ma-la-thập dịch từ Phạn văn ra Hán văn

Thuyền Ấn dịch từ Hán văn ra Việt văn.

 

1. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thời chuyển pháp luân đầu tiên độ cho ông A-nhã Kiều Trần Như, buổi thuyết pháp sau cùng độ cho ông Tu-bạt-đà-la. Những người có nhân duyên đắc độ Ngài đều đã độ xong. Lúc bấy giờ quãng giữa đêm, thanh tịnh không một tiếng động. Phật ở tại rừng Ta La Song Thọ, trước khi sắp nhập Niết bàn, Ngài vì các đệ tử khái lược truyền dạy những pháp cần thiết quan yếu.

2. Này các tỳ kheo! Sau khi ta diệt độ các vị nên trân trọng tôn kính pháp Ba-la-đề-mộc-xoa (giới luật) thì sẽ như người trong đêm tối gặp được ánh sáng, người nghèo khổ được vòng ngọc châu báu. Nên biết rằng: Giới luật là bực đại sư của các vị, giống như ta ở đời không khác gì vậy.

Người trì tịnh giới không được buôn bán mậu dịch, tậu lập ruộng vườn, nhà cửa; nuôi tôi tớ, nuôi các súc vật để cầu lợi. Tất cả các thứ trồng trọt và mọi tài sản, của báu đều nên xả bỏ, như tránh xa hầm lửa. Không được cắt cỏ đốn cây, đào bới đất đai, bào chế các dược phẩm, xem tướng, xem thiên văn, đoán bàn thời vận thịnh suy, xem quẻ, bói toán, những việc ấy đều không nên làm. Phải biết tiết độ để nuôi thân, sống đời sống thanh tịnh. Không được tham dự chính trị, nhận làm sứ mạng giao thông liên lạc. Không được kết bạn với người quyền quí, quen thân với người kiêu căng ngã mạn, các việc ấy đều không nên làm. Phải luôn tự đoan tâm chánh niệm cầu mong được giải thoát. Không được che dấu tội lỗi, bày những điều lạ để lừa bịp mọi người. Đối với tứ sự cúng dường nên lượng biết vừa đủ. Giả sử được cúng dường nhiều, không nên tích trữ.

Đấy là khái lược nêu lên hành tướng của việc trì giới. Điểm căn bản chính yếu của giới luật là Ba-la-đề-mộc-xoa (có nghĩa là biệt giải thoát). Vì thế nên bất kỳ ai tuân tu theo giới luật này sẽ được phát sinh thiền địnhtrí tuệ diệt khổ. Thế nên các tỳ kheo phải kiên trì tịnh giới, chớ để hủy phạm. Nếu ai khéo trì tịnh giới, người ấy chắc chắn thu hoạch được các thiện pháp. Nếu khôngtịnh giới, thì các thiện công đức đều không thể phát sinh. Do đó phải biết rằng, giới là trụ xứ an ổn bực nhất.

3. Các tỳ kheo! Khi đã an trụ vào tịnh giới, phải nên ngăn chế năm căn, chớ để chúng buông lung sa mê với năm dục. Phải như người chăn trâu cầm gậy xem trông trâu, không để nó đi lung tung ăn phạm lúa má của người. Nếu tỳ kheo nào để năm căn buông lung, thì không những chỉ sa vào năm dục, nó sẽ làm cho say mê ngụp lặn chìm đắm vô cùng tận, lúc bấy giờ không còn cách gì ngăn chế nỗi. Cũng như con ngựa dữ, nếu không có yên cương ngăn chế nó, nó sẽ đưa người sa vào vực thẳm. Người bị giặc cướp chỉ mang khổ họa trong một đời, chứ khổ lụy của giặc năm căn gây tai ương đến vô số kiếp, sẽ chịu nhiều thống khổ, không thể không cẩn thận. Thế nên người trí luôn ngăn cấm nó mà không theo, canh giữ nó như canh giữ giặc, không bao giờ để nó buông lung. Người biết giữ gìn cẩn thận như thế, thì giả sử nó có lỡ buông lung chút đỉnh, cũng sẽ bị trừ diệt ngay sau đó không lâu.

Năm căn này, tâm làm chủ chúng nó. Vì thế các vị nên khéo ngăn chế tâm. Vọng tâm đam mê buông lung là điều đáng sợ. Nó còn nguy hiểm hơn rắn độc, ác thú, bọn oán tặc, lửa dữ bừng bừng bốc cháy, các thứ ấy chưa đủ sức sánh ví với tai họa không bến bờ do vọng tâm gây nên. Ví như có người trong tay cầm bát mật mà di chuyển quá mau, nhưng lại chỉ ham nhìn vào bát mật, chứ không nhìn thấy vực thẳm trước mắt. Hay như con voi điên không có câu móc ngăn chế nó. Hoặc như những con vượn, con khỉ khi gặp được rừng cây là mặc sức leo trèo, nhảy nhót, rất khó ngăn cấm được. Phải gấp bế tỏa vọng tâm lại, chớ để nó buông lung. Ai để cho vọng tâm buông lung thì tất cả thiện công đức của người ấy đều bị hủy diệt hết. Ai ngăn chế được vọng tâm này lại một chỗ, thì tất cả công đức đều được viên thành. Thế nên các tỳ kheo phải thường tinh tiến ngăn chế điều phục vọng tâm của các ngươi.

4. Các tỳ kheo! Khi thọ lãnh các thức ăn uống, nên xem như sự uống thuốc, đối với món ngon thức dở, chớ sinh lòng thêm bớt, cốt dùng nuôi thân để trừ bịnh đói khát. Hãy như con ong hút hoa, chỉ hút lấy vị hoa, chứ không làm tổn hại đến sắc hương của hoa. Tỳ kheo cũng thế, thọ lãnh sự cúng dường của người, chỉ cần vừa đủ dùng, không được tham cầu nhiều mà làm băng hoại thiện tâm của người. Phải như người trí lượng biết sức con trâu kham nhận chở được bao nhiêu, không cho trâu chở nặng quá sức để nó phải kiệt lực.

5. Các tỳ kheo! Ban ngày nên chuyên tâm siêng tu các thiện pháp, chớ để mất thì giờ. Đầu đêm, cuối đêm cũng chớ biếng nhác, bỏ phế. Giữa đêm thì tụng kinh để tăng ích công đức và tự tiêu trừ các nghiệp chướng. Chớ để việc ngủ nghỉ làm cho cả cuộc đời lãng phí, trôi qua vô ích, không thu hoạch được một sở đắc nào trên bước đường tu hành đạo nghiệp. Nên nhớ lửa vô thường đang thiêu đốt hủy hoại khắp trần gian. Phải sớm cầu mong tiến tu giải thoát, chớ nên ham ngủ. Các thứ giặc phiền não thường rình để giết người, còn hơn lũ oan gia, thế nên đâu có thể say mê ham ngủ không biết tự tỉnh ngộ. Con rắn độc phiền não nằm ngủ ngay trong tâm các người, ví như con rắn hổ mang màu đen đang nằm ngủ ngay trong nhà các ngươi. Phải khẩn cấp dùng câu móc trì giới sớm trừ diệt. Khi rắn độc ra khỏi nhà rồi mới có thể yên ngủ. Rắn độc chưa ra mà cứ ngủ, đấy là người không biết tàm quí. Trong tất cả các thứ phục sức, đức tàm quí là thứ phục sức trang nghiêm quí báu nhất. Đức tàm quí như loại móc sắt đủ sức ngăn cản việc phi pháp của người. Vì thế thường nên giữ đức tàm quí, không được lì lợm vô liêm sĩ. Nếu ai rời bỏ đức tàm quí, thì người ấy bị mất hết tất cả công đức. Người có đức tàm quí là người có các thiện pháp. Nếu ai không có đức tàm quí, kẻ ấy giống như cầm thú không khác gì.

6. Các tỳ kheo! Nếu giả sử có người đến phanh thây của các vị ra từng mảnh, các vị phải trầm tỉnh nhiếp tâm, chớ nên sân hậncẩn thận giữ gìn chớ buông ra lời nói hung dữ. Nếu để tâm khởi lên sân hận là tự ngăn trở đạo nghiệp, mất hết tất cả công đức. Đức nhẫn nhục, hết cả việc trì giớitu khổ hạnh cũng không thể sánh kịp nó. Ai thực hiện được đức nhẫn nhục mới là người có năng lực vĩ đại. Nếu ai không đủ sức hoan hỷ nhẫn nhịn chịu đựng được đối với mọi thứ mạ lỵ ác độc xem như uống nước cam lồ, thì người ấy không được gọi là người trí tuệ nhập đạo. Vì sao? Vì tai hại của sự sân hận phá tan tất cả thiện pháp, làm hủy hoại tất cả danh dự quí báu, đời này và đời sau mọi người không ai ưa nhìn thấy. Nên biết rằng, sân tâm còn nguy hiểm hơn lửa dữ, thường phải đề phòng chớ để nó xâm nhập. Loại giặc cướp công đức không thứ nào hơn sân hận. Người bạch y tiếp nhận các thứ dục vọng, không phải là người hành đạo, họ không có phương pháp tự chế, sân hận còn có thể tha thứ. Người xuất gia là người vô dục, mà còn ôm giữ lòng sân hận là điều quá sức không nên có. Ví như giữa bầu trời quang mây tạnh lại đột nhiên nổi lên sấm chớp là điều không phải vậy.

7. Các tỳ kheo! Nên tự rờ đầu để thức tỉnh xả bỏ các phục sức tốt đẹp, bận áo hoại sắc, cầm bình bát đi khất thực để nuôi thân. Tự thấy đời sống của mình như vậy, nếu còn khởi tâm kiêu mạn thì nên mau trừ diệt đi. Tăng trưởng lòng kiêu mạn, điều ấy còn không phải là việc nên làm của người bạch y thế tục, huống gì người xuất gia nhập đạo, vì chủ đích giải thoát, tự hạ mình xuống, xả bỏ tất cả, sống qua ngày bằng hạnh khất thực ư?

8. Các tỳ kheo! Lòng nịnh bợ cùng với đạo trái nhau. Vì thế quí vị thường nên giữ lòng chân chất, trung trực. Nên biết nịnh bợ chỉ là sự dối trá. Người nhập đạo không nên làm việc đó. Vì thế quí vị phải nên đoan tâm, lấy điều chân chất, trung trực làm căn bản.

9. Các tỳ kheo! Nên biết rằng người đa dục ham cầu tài lợi nhiều, thì càng lụy nhiều khổ não. Người thiểu dục thì không ham cầu, không đa dục, nên không vướng vào tai họa đó. Ấy thế mà sự thiểu dục còn phải thực tập, huống chi sự thiểu dục hay sinh trưởng các thiện hạnhcông đức. Người thiểu dục không cần nịnh bợ ai để chìu lụy ý ai, lại không bị sự đam mê của các căn lôi cuốn. Người có hạnh thiểu dục thì tâm thường an vui thanh thản, không có lo sợ; gặp bất kỳ việc gì đều thừa sức đối phó, không cảm thấy thiếu thốn. Người nào có hạnh thiểu dục, người ấy có Niết bàn. Đấy là hạnh thiểu dục.

10. Các tỳ kheo! Nếu muốn giải thoát các khổ não nên tu quán pháp tri túc. Pháp tri túc là nơi giàu sang, yên ổn và an vui. Người tri túc tuy nằm trên đất vẫn rất an vui. Người không tri túc dù ở trên thiên đường cũng không vừa ý. Người không tri túc tuy giàu mà nghèo. Người tri túc tuy nghèo mà giàu. Người không tri túc thường bị năm dục lôi cuốn, nên người tri túc lấy làm thương xót. Đấy là pháp tri túc.

11. Các tỳ kheo! Nếu mong cầu có được pháp tịch tịnh, vô vian lạc, phải nên rời xa các chốn ồn ào náo nhiệt, riêng ở một mình nơi yên vắng thanh tịnh. Người ở chỗ thanh tịnh được các vị Đế-thích và chư thiên kính trọng. Người tu hành phải rời xa đồ chúng của mình và đồ chúng của người, riêng ở một mình nơi yên vắng thanh tịnh, để tư duy, tu hành trừ diệt nguồn gốc của mọi sự đau khổ. Nếu đam mê các thứ ồn ào huyên náo, thì sẽ bị chúng nhiễu não. Ví như cây đại thọcác loại chim chóc đến tụ họp, tất sẽ vướng tai họa cành lá phải bị khô gãy. Người ràng buộc với thế gian sẽ bị đắm chìm trong muôn ngàn đau khổ. Ví như con voi già bị sa vào bãi lầy, không thể nào tự vượt thoát ra được. Đấy là ý thức thoát ly.

12. Các tỳ kheo! Nếu các vị thường nỗ lực tinh tiến thì không có việc gì khó cả. Vì thế các vị thường phải nỗ lực tinh tiến. Như giòng nước bé nhỏ thường chảy vẫn đủ sức làm xuyên thủng đá. Nếu tâm người tu hành thường biếng nhác bê trễ, chẳng khác gì người kéo cây lấy lửa, khi cây chưa nóng đã dừng kéo, thì dù muốn có lửa vẫn không thể nào có được. Đấy là pháp tinh tiến.

13. Các tỳ kheo! Cần cầu bực thiện tri thức, kiếm tìm người thiện hỗ trợ, điều ấy không bằng đừng để quên mất chánh niệm. Nếu người thường không để quên mất chánh niệm, thì các giặc phiền não không thể nào xâm nhập được. Vì thế các vị thường nên nhiếp chánh niệm tại tâm. Nếu người để mất chánh niệm thì sẽ bị mất các công đức. Nếu ai có năng lực chánh niệm vững mạnh thì người ấy có đi vào trong đám giặc ngũ dục vẫn không thể nào bị nhiễu hại. Như người bận áo giáp vào chốn trận mạc thì không còn bận tâm lo sợ gì. Đấy là pháp yếu không để quên mất chánh niệm.

14. Các tỳ kheo! Nếu người thường nhiếp tâm lại một chỗ, thì tâm an trụ trong định. Tâm an trụ trong định, thì người ấy đủ sức biết rõ các pháp tướng sinh diệt trong thế gian. Vì thế các vị thường nên nỗ lực tinh tiến tu tập các thiền định. Nếu tâm được định thì không bị tán loạn. Ví như người muốn chứa nước, phải khéo đắp các bờ đê. Người tu hành cũng thế, vì giữ nước trí tuệ nên phải khéo tu thiền định, không để cho nó chảy mất. Đấy là pháp thiền định.

15. Các tỳ kheo! Người có trí tuệ thì không bao giờ tham trước, thường biết tự tỉnh thức, cảnh giác không để phạm các lỗi lầm. Người này ở trong giáo pháp của ta chắc chắn được giải thoát. Người không có trí tuệ như thế, đương nhiên không phải là người xuất gia, cũng không phải là người thế tục, không biết gọi là gì. Trí tuệ chân thật là con thuyền vững chắc vượt qua biển khổ sinh già bịnh chết, là ngọn đèn rực sáng trong đêm tối vô minh, là thần dược chữa trị tất cả bịnh khổ, là lưỡi búa sắc bén chặt đứt cây phiền não. Vì thế các vị phải dùng văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ để tự tăng tiến tu tập lợi ích. Người có trí tuệ soi chiếu, dù chỉ có mắt thịt, vẫn là người thấy biết sáng suốt. Đấy là trí tuệ.

16. Các tỳ kheo! Nếu đam mê các thứ đàm thoại hý luận. tâm mình sẽ bị tán loạn, thì dù đang xuất gia nhưng vẫn chưa được giải thoát. Vì thế các tỳ kheo, phải gấp xả bỏ các thứ hý luận loạn tâm. Nếu các vị muốn đạt được nguồn an lạc cứu cánh tịch diệt, tuyệt đối các vị phải khéo diệt bỏ tai họa của các hý luận. Đấy là pháp không hý luận.

17. Các tỳ kheo! Đối với các công đức thường nên nhất tâm tinh tiến tu hành, phải xả bỏ các buông lung biếng nhác như rời xa oán tặc. Đức đại bi Thế Tôn nói chánh pháp lợi ích giải thoát đã hoàn tất cứu cánh, các vị chỉ cần nỗ lực tinh tiến tu hành theo. Hoặc ở trong núi rừng, hoặc ở nơi đồng vắng, hoặc ở dưới gốc cây, hoặc tịnh tu trong thiền thất, phải thường ghi nhớ pháp mình thọ trì, chớ để quên mất. Hãy thường tự nỗ lực tinh tiến tu hành, đừng để chết trong hoang phí, rồi sau sẽ phải hối hận. Ta như vị lương y biết bịnh cho thuốc, người bịnh uống hay không uống, lỗi ấy không do nơi vị lương y. Lại nữa, ta như người khéo chỉ đường, chỉ dẫn con đường tốt cho người, nghe mà không đi theo, lỗi ấy không do nơi người chỉ đường.

18. Các tỳ kheo! Đối với pháp tứ đế, các vị có điều gì nghi ngờ, nên mau kịp hỏi ngay đi, chớ ôm sự hoài nghi mà không cầu giải đáp. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói lên như vậy ba lần, nhưng trong chúng hội không một người nào hỏi cả. Vì sao? Vì toàn thể đại chúng không ai còn nghi ngờ thắc mắc gì nữa. Lúc bấy giờ, tôn giả A-nậu-lâu-đà quan sát tâm niệm toàn thể đại chúng, rồi bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, chứ pháp tứ đế của Phật dạy không thể nào đổi khác được. Phật nói khổ đế thì quả thật là khổ, chứ không thể là vui. Tập đế đích thật là nhân, chứ không có nhân nào khác. Diệt đếkhổ diệt vì nhân đã diệt, mà nhân đã diệt thì quả cũng diệt. Đạo đếphương pháp diệt khổ, nên đích thật là chân đạo, chứ không có đạo nào khác. Kính bạch đức Thế Tôn, toàn thể các tỳ kheo đối với pháp tứ đế quyết định không còn điều gì nghi ngờ.

19. Trong chúng hội này, những người mà sự tu hành chưa hoàn tất, thấy Phật diệt độ nên có lòng bi cảm. Những người mới vào đạo, nghe lời Phật dạy liền được hóa độ, ví như ban đêm thấy ánh điện chớp sáng thì thấy ngay đường đi. Còn những vị mà sự tu hành hoàn tất, đã vượt qua biển khổ, thì suy nghĩ rằng, đức Thế Tôn diệt độ sao mau quá vậy!

Tôn giả A-nậu-lâu-đà tuy đã bạch Phật rằng trong chúng hội ai cũng liễu đạt diệu nghĩa của tứ thánh đế, nhưng đức Thế Tôn vẫn muốn cho đại chúng tâm được kiên cố, do lòng đại bi, ngài lại vì đại chúng dạy rằng: Các tỳ kheo chớ ôm lòng bi não, nếu ta sống ở đời một kiếp nữa, thì sự hội hợp nào cũng phải phân ly. Hội hợp mà không phân ly, điều ấy hoàn toàn không bao giờ có. Pháp tự lợi, lợi tha, ta đều đã truyền dạy đầy đủ. Nếu ta có sống lâu hơn cũng không ích gì. Những người có thể hóa độ, dù ở trên cõi trời hoặc ở tại nhân gian, đều đã được hóa độ. Những người chưa thể hóa độ, thì ta cũng đã tạo nhân duyên hóa độ cho họ.

20. Từ nay trở về sau, các đệ tử của ta hãy triển chuyển thực hành theo giáo pháp ấy. Như vậy là pháp thân của Như Lai vĩnh vĩễn thường trú, không bao giờ diệt mất. Thế nên biết rằng, trần gian là vô thường, có hội hợp thì có phân ly, chớ nên ưu não. Thực trạng cuộc đời là như thế thì các vị phải nỗ lực tinh tiến tu hành, cầu mong sớm được giải thoát, dùng ánh sáng trí tuệ để diệt trừ các si ám. Cuộc đời thật là mong manh, không có gì vững chắc. Ta nay được tịch diệt như trừ được ác bịnh. Tấm thân giả danh này chìm đắm trong biển khổ sinh già bịnh chết, đấy là vật tội ác cần phải xả bỏ. Có người trí nào diệt trừ được nó, như giết chết kẻ oán tặc, mà không hoan hỷ?

21. Các tỳ kheo! Thường nên nhất tâm nỗ lực tinh tiến tu hành cái đạo giải thoát. Các pháp động và bất động khắp cả thế gian đều là những hiện tượng vô thường băng hoại, không an ổn. Thôi các tỳ kheo! Quí vị đừng nói thêm gì nữa. Thì giờ gần hết, ta sắp diệt độ. Đấy là những lời giáo huấn cuối cùng của ta.

 

Phật tử Quảng Minh đánh máy từ bản chép tay - 09.11.2013

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11724)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12043)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11197)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11434)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12139)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12646)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10861)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18101)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11808)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10038)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10240)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12449)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15452)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11315)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14422)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12210)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15498)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12093)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12491)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11282)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12167)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10702)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12623)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13265)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14971)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12787)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16669)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19772)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13206)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12761)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12367)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11959)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 11011)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13623)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12033)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11936)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11727)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12846)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14628)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12710)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15768)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13722)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13003)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9958)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18111)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11260)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9154)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12280)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13138)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10380)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12270)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15459)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16692)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12324)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11593)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14369)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19852)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14242)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24736)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10774)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant