Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chứng Đạo Ca

16 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 23181)
Chứng Đạo Ca


CHỨNG ĐẠO CA


 HUYỀN GIÁC

Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn


 chung_dao_ca_ht_thuyen_an


I. Ngộ Phật tánh:

 1. Ai có hay chăng bực Đạo nhân

 Vô vi tuyệt học, vọng là chân?

 Chính vô minh tánh: Bồ đề tánh

 Thân huyễn không nầy tức Pháp thân.

 

 2. Đốn ngộ Pháp thân vạn vật không

 Pháp thân, Phật tánh bản nguyên đồng

 Thân mây năm ấm bay qua lại

 Ba độc nổi chìm bọt biển đông.

 

 3. Thực tướng chứng rồi không pháp, nhân

 Diệt A-tỳ nghiệp sát na phân

 Nếu ta vọng ngữ lừa nhân thế

 Lưỡi cắt ngàn đời tội vướng thân.

 

II. Cảnh giới tự chứng:

 4. Hoát nhiên đốn ngộ Như Lai thiền

 Sáu độ vẹn toàn muôn hạnh viên

 Mê mộng đó đây sinh lục thú

 Giác rồi không cả cõi tam thiên.

 

 5. Không tội phước, không thêm bớt đâu

 Bản nhiên tánh tịnh chớ tìm cầu

 Từ xưa gương bụi chưa lau rửa

 Tẩy sạch ngay đi đừng đợi lâu.

 

 6. Ai không niệm? Liễu ngộ không sanh

 Nếu có không sanh, không chẳng sanh

 Xin hỏi mộc nhân[1] nguyên cớ ấy

 Giúp công nhờ Phật việc không thành.

 

 7. Buông bốn đại không hề vướng mang

 Trong tâm ăn uống sống thanh nhàn

 Vô thường vạn pháp toàn không cả

 Viên Giác Như Lai huệ ngọc vàng.

 

III. Bảo tạng Như Lai:

 8. Nói quyết định nêu rõ Thánh tăng

 Có người chưa dám lộ cao đăng

 Chân tâm liễu ngộ Phật minh chứng

 Vạch lá tìm cành không khả năng.

 

 9. Ma-ni châu, có ai hay đâu

 Bảo tạng Như Lai toàn vẹn thâu

 Vô tận thần thông gì chẳng có

 Viên quang diệu thể quá thâm sâu.

 

 10. Tịnh năm nhãn, diệu lực toàn năng

 Ai chứng mới hay người thấu chăng

 Ngắm ảnh trong gương điều chẳng khó

 Đáy song ai dễ kiếm mò trăng.

 

IV. Niết bàn lộ:

 11. Thường độc hành, đi bộ một mình

 Niết bàn lộ liễu ngộ quang minh

 Tinh thần trầm mặc, hình siêu thoát

 Thân huyễn không nầy đầy tánh linh.

 

 12. Xuất gia thoát tục làm bần tăng

 Say đạo, vui nghèo, quên khó khăn

 Nghèo tất thân choàng manh áo rách

 Đạo thì tâm ngọc sáng như trăng.

 

13. Dùng chẳng hết vô giá bảo châu

 Tùy duyên cứu độ thiếu gì đâu

 Ba thân, bốn trí tâm sẵn đủ

 Tám giải, sáu thông Đạo nhiệm mầu.

 

14. Thượng sĩ quyết tâm tất cả thông

 Bực trung, bực hạ ngu và ngông

 Hãy tìm bảo ngọc trong áo rách

 Vô ích bề ngoài khoe tính công.

 

V. Chuyển chướng duyên thành trợ duyên:

 15. Mặc ai hủy báng, chê bai gì

 Đem lửa đốt trời có ích chi

 Lời mắng nghe như cam lộ thủy

 Tiêu dung thể nhập nan tư nghì.

 

 16. Xem như công đức những rầy la

 Người ấy thiện tri thức của ta

 Không khởi hận thù, không oán trách

 Nhân từ, nhẫn nhục lòng dung tha.

 

VI. Thông đạt:

 17. Đạo lý suốt thông, tông chỉ thông

 Sáng ngời định tuệ bỏ mê không

 Điều nầy nào chỉ mình ta đạt

 Chư Phật hằng sa ngộ tánh đồng.

 

 18. Sư tử rống lên vô úy thanh

 Thất kinh muôn thú chạy tan tành

 Cong đuôi hoảng nhảy chúa voi trốn

 Thiên long nghe được tâm an lành.

 

VII. Tâm ấn Tào khê:

 19. Đạo rừng thiêng, thưởng ngoạn trùng dương

 Học đạo tầm sư khắp vạn phương

 Từ lúc Tào khê duyên hạnh ngộ

 Liễu sinh thoát tử chứng chân thường.

 

 20. Ngồi cũng thiền, đi đứng cũng thiền

 Nói phô động tịnh tâm an nhiên

 Kiếm đao hung dữ lòng thanh tịnh

 Độc dược vướng nhằm thân vẫn yên.

 

VIII. Tự giác:

 21. Bổn sư ta gặp Phật Nhiên Đăng

 Tu nhẫn nhục tiên nhiều khó khăn

 Sinh tử, tử sinh bao nạn kiếp

 Liễu sinh thoát tử Phật cao thăng.

 

 22. Từ khi đốn ngộ pháp vô sinh

 Vui khổ không còn đổi nhục vinh

 Vào tận thâm sơn, Lan nhã

 Rừng tùng xanh, núi ngợp U linh

 Tọa thiền thanh thản quên trần thế

 Siêu thoát an nhiên trí tuệ minh.

 

 23. Giác là liễu ngộ không thi công

 Các pháp hữu vi vốn bất đồng

 Bố thí phước sinh trời hưởng lạc

 Thân như tên bắn lên hư không

 Đến khi lực hết tên rơi xuống

 Phiêu bạt trầm luân khổ não lòng

 Đốn ngộ pháp môn: Chân thực pháp

 Ai tu triệt chứng Như Lai tông.

 

IX. Giác tha:

 24. Cội gốc phải lo, chớ bận cành

 Lưu ly ngậm trọn trăng trời xanh

 Trân châu ý ấy ai thông đạt

 Độ thế cứu nhân siêu tuyệt danh

 Trăng chiếu trên sông, tùng vút gió

 Tuyệt vời trăng, nhạc thiền thanh thanh.

 

 25. Phật tánh viên minh ẩn chứng tâm

 Cà sa Phật bận hết thăng trầm

 Hàng long bình bát, trượng trừ hổ

 Hai dãy vòng vàng ngân diệu âm

 Pháp khí trân châu không hủy bỏ

 Như Lai dấu tích chẳng sai lầm.

 

X. Như Lai địa:

 26. Chẳng đoạn vọng, rồi chẳng chứng chân

 Vọng chân không tướng khó ai phân

 Không “KHÔNG”, không “CÓ” siêu siêu hết

 Chính đấy Như Lai chân Pháp thân.

 

 27. Chân tâm sáng chiếu khắp nơi nơi

 Thế giới hằng sa quá tuyệt vời

 Vạn pháp muôn trùng tâm hiện rõ

 Viên quang diệu thể khó nên lời.

 

 28. Chẳng tin nhân quả, đắm mê không

 Phóng đãng nghênh ngang họa vướng vòng

 Bỏ “CÓ”, chấp “KHÔNG” bịnh cũng thế

 Khác nào tránh nước, lửa thiêu ông.

 

 29. Chân lý giữ, tâm vọng bỏ xa

 Tâm thủ xả nầy loại quái ma

 Liễu ngộ chẳng thông tu luyện bậy

 Bỏ con ôm giặc đừng rên la.

 

 30. Tâm, ý, thức mê vọng ám đi

 Mất công đức, đạo lực còn gì

 Nên thiền môn dạy thông tâm pháp

 Đốn ngộ vô sanh trí diệu vi.

 

XI. Hành Như Lai sự:

 31. Đại trượng phu, thanh kiếm huệ cầm

 Tuyệt vời bát nhã ngời chân tâm

 Thiên ma khiếp đảm tàn lui bước

 Ngoại đạo tỉnh mê bỏ chấp lầm.

 

 32. Pháp âm ngân, sấm pháp rền vang

 Cam lộ mưa rơi trong nắng vàng

 Vạn loại tam thừa đều giải thoát

 Siêu nhân xuất hiện cứu trần gian.

 

XII. Pháp tánh viên dung:

 33. Cỏ phì nhị[2] tuyết sơn tươi xanh

 Nơi tạo đề hồ ta biết danh

 Một tánh bao hàm tất cả tánh

 Viên dung một pháp vạn hình sanh

 Ánh trăng chiếu khắp muôn sông nước

 Trăng nước muôn sông một ánh trăng

 Chư Phật pháp thân tâm liễu nhiếp

 Tâm ta, tâm Phật: diệu huyền đăng.

 

 34. Tất cả địa trong một địa thông

 Chẳng tâm, chẳng sắc, chẳng tây đông

 Sát na diệt nghiệp ba kỳ kiếp[3]

 Pháp môn muôn vạn phút giây xong

 Văn chương chữ nghĩa toàn không cả

 Chẳng dính líugiác tánh ông.

 

 35. Chê khen vượt thoát, tâm thường an

 Tĩnh lặng hư không thể niết bàn

 Viên giác diệu tâm ngay trước mặt

 Tìm là không thấy chớ nghênh ngang

 Vướng vào thủ xả toàn không được

 Không được ấy mà giác đạo quang

 Lúc nói im, khi im lại nói

 Mở khai thí hội tâm thênh thang.

 

 36. Có người lại hỏi giảng tông gì?

 Bát nhã kinh truyền tâm đại bi

 Hoặc trái, hoặc sai người chẳng biết

 Việc làm thuận nghịch trời hay chi.

 

XIII. Truyền tâm pháp yếu:

 37. Trải qua nhiều kiếp ta chuyên tu

 Nào dại bịp người hạnh ngốc ngu

 Khai đạo tràng, truyền tâm pháp yếu

 Tào khê liễu ngộ Tổ công phu.

 

 38. Ca Diếp truyền tâm vị Tổ đầu

 Tây thiên hăm tám Tổ truyền nhau

 Khai thiền Đông độ Đạt Ma Tổ

 Y bát tâm truyền sáu Tổ sau

 Tiếp nối nhiều người tâm Phật chứng

 Truyền tâm đốn ngộ: Pháp tu mau.

 

 39. Chân không lập, vọng vốn toàn không

 Trút bỏ có không mê chấp thông

 Không tưởng đắm say trừ sạch hết

 Như Lai thể tánh xưa nay đồng.

 

 40. Tâm thành căn, pháp biến ra trần

 Như bụi che gương đều khó phân

 Căn cảnh băng tiêu gương bụi sạch

 Ngàn đời lưu hộ Như Lai thân.

 

XIV. Ma chướng thời mạt pháp:

 41. Than ôi! Mạt pháp: ác gian thời!

 Phước bạc chúng sinh say đắm đời

 Cách Phật lâu xa tà kiến nặng

 Ma cường pháp nhược oán không vơi

 Được nghe đốn ngộ Như Lai giáo

 Cuồng hận phá, tan nát tả tơi.

 

 42. Ác do tâm, khổ lụy thân sầu

 Chớ oán trời người, không được đâu

 Muốn khỏi sa vào vô gián ngục

 Như Lai diệu pháp phải qui đầu.

 

XV. Khí tượng Phật thừa:

 43. Thú thường không ở rừng chiên đàn

 Sư tử một mình sống dọc ngang

 Lãnh chúa sơn lâm uy dũng ngắm

 Thú chim trốn đến nơi bình an.

 

 44. Sống cạnh Mẹ đàn sư tử con

 Lúc lên ba tuổi hét vang non

 Chó rừng, muôn thú run lo sợ

 Khi thấy Pháp vương vía chẳng còn.

 

XVI. Pháp viên đốn:

 45. Pháp viên đốn vượt thoát thường tình

 Diệt bỏ nghi nan chớ để sinh

 Nhân ngã luận bàn xin chẳng dám

 Đoạn, thường hố thẳm tránh điêu linh.

 

 46. Thị chẳng thị, phi cũng chẳng phi

 Lạc xa ngàn dặm, sai hào li

 Thị như Long nữ khắc thành Phật

 Thiện Tịnh vì phi đọa A-tỳ.

 

XVII. Chứng tích cá nhân:

 47. Ta nay học vấn đã từ lâu

 Kinh luận sớ sao nghiên cứu sâu

 Mê đắm văn chương quên nhọc mệt

 Biển mò đếm cát ngu như trâu

 Đáng nghe quở trách Như Lai mắng

 Đếm bảo châu người lợi ích đâu?

 Tính lại mới hay công sức phí

 Làm phong trần khách nhiều đêm thâu.

 

 48. Hiểu lầm lạc, tánh chấp mê

 Đốn giáo Như Lai không ngộ ra

 Tinh tiến tiểu thừa thiếu huệ lực

 Thông minh ngoại đạo trí yêu ma

 Vừa ngông ngu, lại vừa thơ dại

 Tay chỉ trời khờ khạo tưởng là:

 “Tay chính mặt trăng”. Si tối thế!

 U mê căn cảnh loạn phong ba.

 

 49. Rời xa các tướng tức Như Lai

 Như Quán Thế Âm giác huệ khai

 Liễu được, tan vong toàn nghiệp chướng

 Bằng không, oan trái vướng lâu dài.

 

 50. Đói gặp tiệc vua không thể ăn

 Bịnh xa thầy thuốc bịnh càng tăng

 Thiền trong rừng dục thiền kiên cố

 Biển lửa sen sinh thân vạn năng

 Phạm giới Dũng Thi tâm liễu ngộ

 Sớm thành Phật đạo quả cao đăng.

 

XVIII. Duy Ma sư tử hống:

 51. Sư tử rống lên giọng dũng uy

 Thương người mê tối lắm ngu si

 Chỉ hay phạm trọng[4], chướng thành Phật

 Chẳng rõ Như Lai ý diệu vi.

 

 52. Hai vị tỳ kheo phạm sát, dâm

 Ba-ly trí cạn tội phân lầm

 Duy Ma Đại sĩ trừ nghi hoặc

 Tội tiêu, vọng hết, chứng chân tâm.

 

 53. Giải thoát nhiệm mầu sức tuyệt vời

 Hằng sa diệu dụng hiện nơi nơi

 Cúng dường tứ sự dâng không thiếu

 Hiến triệu lượng vàng, hiến trọn đời

 Thịt nát xương tan, đền chẳng đủ

 Trần gian siêu thoát một câu thôi.

 

XIX. Pháp vương:

 54. Tối thắng Pháp vương: Đức Thế Tôn

 Đồng nhau chư Phật chứng tâm môn

 Pháp vương tâm ngọc ta minh ngộ

 Quên hết trần gian những dại khôn.

 

 55. Liễu thoát thấy: không một vật nào

 Không người, không Phật, không trăng sao.

 Hằng sa thế giới: bọt trong biển

 Tất cả Thánh hiền: điện chớp cao.

 

 56. Giả sử thiết luân quay đỉnh đầu

 Viên minh định tuệ mất nào đâu

 Mặt trời lạnh, hoặc vừng trăng bừng nóng

 Ma quỷ phải hàng Phật đạo mầu

 Đường dốc xe voi lên vững mạnh

 Cản đường châu chấu chuyện còn lâu.

 

 57. Voi lớn không theo dấu thỏ đi

 Ngộ rồi chấp tiểu tiết làm gì

 Ếch ngồi đáy giếng chê trời hẹp

 Chưa ngộ ta bày chỗ diệu vi.

 

 Phật tử Quảng Minh đánh máy vi tính – 16/12/2013


[1] Mộc nhân: Người bằng gỗ.

[2] Phì nhị: Tương truyền trên tuyết sơn có loại cỏ rất quí tên là phì nhị, bò ăn loại cỏ nầy sinh ra sữa rất quí. Đem sữa ấy nấu và chế biến thành đề hồ, là thức ăn rất bổ dưỡng cho cơ thể.

[3] Ba kỳ kiếp: Gọi đủ là ba A tăng kỳ kiếp, có nghĩa là ba vô số kiếp.

[4] Phạm trọng: Phạm bốn trọng giới: Sát, Đạo, Dâm, Vọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11722)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12043)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11194)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11433)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12138)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12644)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10861)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18100)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11806)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10028)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10239)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12446)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15449)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11313)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14420)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12198)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15497)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12091)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12489)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11279)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12167)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10700)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12622)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13264)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14971)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12786)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16668)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19770)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13206)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12758)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12366)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11958)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 11010)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13622)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12032)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11936)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11717)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12843)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14627)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12709)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15767)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13711)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13003)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9956)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18109)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11259)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9152)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12280)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13135)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10378)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12270)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15453)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16691)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12324)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11592)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14366)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19850)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14242)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24734)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10774)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant