Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bát Nhã Tâm Kinh Thiền Giải

17 Tháng Giêng 201506:55(Xem: 12438)
Bát Nhã Tâm Kinh Thiền Giải

BÁT NHÃ TÂM KINH THIỀN GIẢI

Tác giả: ĐƯƠNG ĐẠO
Nhà xuất bản Văn Hoá Sài Gòn 2010



DẪN NHẬP

Bát Nhã Tâm Kinh Thiền GiảiCác nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa. Bởi vì không những kinh điển của hệ thống nghiên cứu về Tánh Không chiếm khối lượng nhiều nhất trong Đại thừa, mà từ Tánh Không (sunyata) đã lưu xuất ra hầu hết các học phái tu chứng của đạo Phật, như Thiền tông, Không Luận tông của Ngài Long Thọ, Thiên Thai tông và tiềm tàng trong Duy Thức tông, Mật tông, Hoa Nghiêm tông, Pháp Hoa tông...

Kinh Đại Bát-nhã nói: "Y theo Bát-nhã này, người nào muốn thành Tu Đà Hoàn sẽ đắc quả Tu Đà Hoàn, muốn thành A-la-hán sẽ đắc quả A-la-hán, muốn thành Bích Chi Phật sẽ thành Bích Chi Phật, muốn thành Bồ-tát sẽ thành Bồ-tát, nhẫn đến muốn thành Phật sẽ thành Phật". Tất cả đều nhờ Bát-nhã. Như thế Bát-nhã bao gồm Đại thừa lẫn Tiểu thừa, tùy theo người sử dụng.

Bộ kinh Đại Bát-nhã gốm sáu trăm quyển, có 125.000 bài tụng do ngài Huyền Trang dịch. Bộ này được cô đọng thành Bát- nhã Tâm Kinh gồm 260 chữ, nguyên văn bằng chữ Sanskrit, được lưu hành rộng rãiTây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Như thế, đủ rõ Bát-nhã Tâm Kinh là cốt tủy của hệ thống Bát-nhã Không tuệ học, mà chúng ta ai cũng thuộc lòng. Và ai đến với đạo Phật, như một con đường rộng lớn nhất để giải thoát, chứng thực được thực tại vi diệu nhất là Niết-bàn Tự Tâm, đều phải, không hoàn toàn thì cũng một phần, đi trên con đường Bát-nhã vì Bát-nhã được kinh gọi là Mẹ của chư Phật.

Vậy thì Trí Huệ Bát-nhã là gì? Tâm Kinh được truyền thuyết để hành giả đạt đến cái gì? Trí Huệ Bát-nhã là trí huệ thấu biết Tánh Không và đưa hành giả đạt đến Tánh Không. Tánh Không là gì mà đạt đến nó tức là thành tựu được Phật quả, đạt đến mục đích cuối cùng của Đạo Phật? Có được một ý niệm về Không, một hiểu biết ở trên bình diện ý thức, dù ý thức được đạo Phật xem là vọng thức, chúng ta mới có thể đi vào Bát- nhã Tâm Kinh.

Không có ba ý nghĩa:

1 -- Ý nghĩa thế đế. Không là không có tự tánh, rỗng không. Đó là ý nghĩa của Không trong câu "soi thấy năm uẩn là Không". Tiếng Phạn là asbhava-sunya, tức là năm uẩn rỗng không, không có tự tánh.

Để cho dễ hiểu, chúng ta hãy xem xét sự vật trên bình diện ý thức, nghĩa là những gì ý thức có thể hiểu được. Theo khoa học hiện đại về vật lý hạt nhân, phần tử căn bản tạo nên vật thể là nguyên tử. Nguyên tử gồm một nhân, xoay quanh nhân là những âm điện tử. Các electron này thường có tốc độ khoảng nửa tốc độ ảnh sáng. Như thế cơ cấu của một nguyên tử không tồn tại nguyên dạng trong một phần triệu giây. Nói theo người xưa là nguyên tử không có tự tánh vì không giữ được cơ cấu của mình trong một sát-na.

Kim loại vốn rắn, dưới ảnh hưởng của nhiệt biến thành thể lỏng. Kim loại không duy trì được tự tánh của nó nên kim loại là không có tự tánh Nói theo lối đạo Phật, tứ đại (đất nước, gió, lửa) đều có thể bị hủy diệt biến thái bởi nhau và hóa thành lẫn nhau. Các nguyên tố sanh ra vũ trụ đều không có tự tánh nên là Không.

Một ý nghĩa nữa mà ý thức có thể hiểu, Không nghĩa là trống rỗng. Cũng trong nguyên tử khoảng cách từ nhân ra đến âm điện tử là cực kỳ lớn, đến nỗi khối lượng vật chất (nhân + âm điện tử) so với khoảng không ở giữa chúng cũng giống như khối lượng các ngôi sao so với khoảng không vũ trụ chứa đựng chúng. Nếu bỏ đi khoảng không trong nguyên tử, thì toàn thể một con người chỉ còn lại phần vật chất đặc nhỏ hơn hạt cát. Một kính hiển vi điện tử nhìn một bức tường sẽ thấy là trống không, vì phần vật chất quá ít so với khoảng không chứa chúng. Vật chất mà ta thấy bằng mắt gần như trống rỗng, đó là một phần ý nghĩa của chữ Không. Không trong ý nghĩa thế đế là không có tự tánh và trống rỗng, một phần nào khoa học hiện đại có thể hiểu được.

2 . Ý nghĩa thế đế thứ hai: Không có nghĩa là giả, không thật, như huyễn ảo. Qua những thí dụ trên, ta thấy rằng sự vật ta nhìn bằng mắt thường thì khác với sự vật của khoa học. Ta cũng biết rằng con kiến chỉ biết có hai chiều, không biết chiều cao. Con chó cũng thấy được có hai màu trắng đen. Vào đầu thế kỷ, con người ý thức được chiều thứ tư của sự vật là chiều thời gian. Vậy thì, thực tại tùy theo mỗi loài, tùy theo ý thức hạn hẹp hay mở rộng mà thấy có khác nhau. Cái ta thấy chỉ là cái của ta. Cái ấy không đúng như thực tại trong tự thể của nó. Không nhìn đúng sự thật, không nhìn được thực tại như nó hiện là, mà nhìn ra một cái khác tùy theo ý thức mỗi loài. Cái khác đó đạo Phật gọi là giả hay sâu xa hơn, là như huyễn. Duy Thức tông nói mọi pháp đều có theo “thức”. Nghĩa là mọi vật đều theo “thức phần” của ta mà hiện ra với ta, cái hiện ra đó tùy theo thức, nên mọi cái hiện ra đều do thức. Vì theo thức riêng của mỗi loài chúng ta nên không thật, là giả, như huyễn.

3. Ý nghĩa chân đế. “Không” là thực tại, không sanh, không diệt, không dơ sạch, không tăng giảm, như Tâm Kinh tuyên thuyết. Thực tại đó siêu việt khỏi mọi ngôn ngữ, mọi ý niệm hoặc có hoặc không, ngoài mọi hình tướng nên dùng chữ “Không” để diễn tả nhưmột sự phủ định tất cả và vượt lên tất cả. Thực tại đó, trong Thiền tông được biểu thị bằng một vòng tròn trống không hàm chứa tất cả mọi sự, đó là thực tại tròn đầy gọi là Chân Không Diệu Hữu.

Lấy một ví dụ có ý nghĩa triết học, người xưa thường dùng là sóng và nước. “Không” ở đây là bản thể, đối với “sắc” là hiện tượng. Tâm Kinh nói sắc tức là Không, có nghĩa là hiện tượng sanh diệtbản thể chân thường. Như sóng sanh diệtbản thể là nước, là biển cả chân thường. Bản thể của sóng là nước như bản thể của hình sắc vật chấtChân Không.

Như thế, trăm ngàn sóng đều đồng nhau trong bản chất là biển cả, cũng như trăm ngàn hình sắc đều cùng một bản chấtChân Không bất diệt. Trăm ngàn thứ đồ vật bằng vàng đều có bản thể là vàng. Chúng ta không thấy được vạn vật cùng một thể tánh (thể tánh này siêu việt lên ý thức, ngoài mọi lý luận về có và không) vì chúng ta bị trói buộc trong ý thức nông cạn của mình. Muốn thấy được Tánh Không đó phải từ ý thức đi vào Trí Bát-nhã. Đó là quá trình tu chứng của đạo Phật.

Một cách cụ thể, khi có người hỏi hành giả tu Bát-nhã, cái bàn là gì? Hành giả đó sẽ trả lời cái bàn là Không. Và không những cái bàn, mà cỏ cây, hoa lá, núi sông, phàm thánh trời người, tất cả đều là Không, đều đồng một thể Chân Không. Điều đó cũng giống như tất cả mọi bóng sắc trong một tấm gương rộng lớn đến vô hạn, tuy sắc có vô số nhưng đồng một bản thể là gương. Tâm Kinh nói Không tức thị Sắc nghĩa là gương và bóng là một. Không có bóng nào ở ngoài gương và không có bóng nào không có bản chất là gương.

Đối với khoa học hiện đại, khi được hỏi bản thể của vật chất là gì, khoa học sẽ trả lời là những hạt cơ bản. Đối với đạo Phật, vượt quá ý thức để thấy và chứng bằng Trí Huệ, bản thể của vật chất còn vi diệu hơn cả những hạt cơ bản và những hạt cơ bản là một thứ vật chất nhỏ. Những hạt cơ bản không vi tế bằng khoảng không ở trong nguyên tử đó, mà theo kinh Lăng Nghiêm khoảng trống không vũ trụ còn được sanh ra bởi và ở trong Như Lai Tạng tức là trong Chân Không, thì cái thể tánh Không đó hoàn toàn không thể nghĩ bàn.

Kinh Duy-ma-cật phẩm Đệ Tử có nói: Pháp đồng pháp tánh". Mọi pháp cùng đồng một Pháp tánh. Pháp tánh ấy là Không. Không là Pháp tánh, là bản thể của tất cả mọi vật. Ngài Hiền Thủ, tổ Hoa Nghiêm tông, giảng Sư Tử Chương: Con sư tử bằng vàng, nên tất cả mọi sợi lông trên thân đểu bằng vàng. Cũng thế mọi hình tướng vật chất ta thấy được đều cùng một thể tánh, thể tánh đó là Không.

Không đó, kinh Lăng Nghiêm gọi là Không Như Lai Tạng. Hoa Nghiêm gọi là Pháp giới Tánh, Pháp Thân. Kinh Viên Giác gọi là Viên Giác, cái biết thường hằng viên mãn. Kinh Lăng Già gọi là Viên thành thật Trí hay Đại viên cảnh Trí.

Ngài Padmasambhava, vị khai sáng Phật giáo Tây Tạng trong cuốn Đại Giải Thoát, diễn tả cái Không đó là Nhất Tâm như sau: "Tâm thì không chỗ trụ, không dơ nhiễm, không sinh ra bởi vật gì, là Chân Không, chiếu soi, trống lặng, không phân hai, trong suốt, không thời gian, không trộn lẫn, không bị ngăn ngại, không màu sắc, không hình tướng để có thể nắm bắt, nhưng là nhất thể của vạn pháp, lại cũng không sinh ra bởi vạn pháp. Một vị bình đẳng siêu lên mọi phân biệt."

Lục Tổ Huệ Năng gọi là Tự Tánh: "Nơi con người, thân xác là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm giác quan là năm cửa, trong có cửa ý, tâm là đất, Tánh là Vua. Trên đất tâm này, có Giác Tánh Như Lai, phóng ra ánh sáng lớn, ngoài soi sáu cửa thanh tịnh, trong phá sáu nẻo luân hồi, Tự Tánh chiếu bên trong ba độc tham sân si diệt trừ, địa ngụctội lỗi tiêu sạch. Trong ngoài sáng suốt chính là Tịnh Độ."

Thiền tông gọi Tánh Không này là Tâm, Chân Tâm, Phật Tánh, Tâm Không, Tâm Ấn... Mật tông gọi là Kim Cương giới, thế giới bản thể, đối lại với Thai Tạng giớithế giới hiện tượng.

Ở trên là ba ý nghĩa của Tánh Không. Ba ý nghĩa đó có thể gọi là ba phương diện của cùng một thực tại. Ba phương diện này được Ngài Long Thọ nói trong Trung Luận:

"Các pháp nhân duyên sanh.
Tôi nói chính là Không.
Đó gọi là giả danh.
Cũng là nghĩa Trung Đạo. "

Nói theo ngài Thiên Thai Trí Giả, đó là ba phương diện Không, Giả, Trung của thực tại. Đối với ba phương diện ấy của thực tại Không, đạo Phật có ba pháp tu quyết định được giảng trong những kinh điển như Lăng Nghiêm và Viên Giác để đưa hành giả tương ưng với Thực Tại. Đó là Samatha, Chỉ hay Định để tương ưng với Không. Vipasyana, Quán hay Huệ để tương ưng với Giả. Dhyana hay Thiền, hay Chỉ Quán song tu để tương ưng với Chân Không Trung Đạo đệ nhất nghĩa đế. Đứng trong Triết học Đông phương, chia thực tại làm ba phương diện Thể, Tướng, Dụng thì Không là:

Thể: Không là Chân Không Trung Đạo đệ nhất nghĩa đế, ly tứ cú (vượt ra ngoài bốn ý niệm: có, không, vừa có vừa không, không có không không), tuyệt bách phi (vượt ra ngoài một trăm cái ‘chẳng phải là’).

Tướng : Không là trống rỗng, không tự tánh.
Dụng : Không là không thật có, như huyễn.

Tóm lại dầu gọi bằng tên gì, chúng ta cũng có một kết luận: Có một thể tánh chân thường, không sanh không diệt, không tăng không giảm, ngoài mọi ý niệm có không. Thể tánh đó là bản thể của mọi pháp và cũng là thể tánh của chúng ta. Nó là Phật tánh của chúng ta, cái vốn có từ xưa đến giờ ở nơi mỗi chúng ta. Chúng ta chỉ thoát khỏi khổ đau, ràng buộc, trôi lăn trong sanh tử luân hồi, ngày nào chúng ta là Nó. Còn là một làn sóng, còn bị trói chặt trong thân ngũ ấm, chừng đó còn bị đau khổ, trôi lăn. Khi nào làn sóng là một với đại dương không sanh không diệt, thường, lạc, chân, tịnh, vấn đề đau khổluân hồi sẽ chấm dứt. Thể tánh đó là lời hứa vĩnh cửu cho mọi con người chúng ta, những sinh vật khát khao vĩnh cửu chân thường, vì tất cả chúng ta đều sanh ra để chết. Nếu khôngthể tánh Chân Không đó, sẽ không có đạo Phật, vì chẳng còn lời giải cho khổ đau, sanh tửluân hồi, không còn nụ cười an nhiên của Đức Phật, không có sự tự chứng và giúp người khác chứng, không có một Đức Phật nào và một vị Bồ-tát nào.

Tánh Không đó là lời hứa vĩnh cửu cho mọi con người khát khao vĩnh cửu, thường, lạc, chân, tịnh, mà chính Đức Thích-ca đã hứa với mỗi một chúng ta, khi trao y bát cho Ngài Ca-diếp làm vị Tổ đầu tiên của đạo Phật: "Ta có Chánh pháp Nhãn Tạng Niết- bàn Diệu Tâm, thực tướng vô tướng, nay phó chúc cho ông."

Tánh Không đó, không phải do giảng thuyếtđạt được, không do bàn luậnđạt được không do học tập mà đạt được. Với đạo Phật, nghe (Văn) tư duy (Tư) chỉ để đi đến thực hành (Tu). Tánh Không đó chỉ đạt được do tu tập, do huân tập một cái nhìn khác với cái nhìn của giác quan thường nghiệm, luyện tập một lối suy nghĩ khác với ý thức thường nghiệm để chuyển thức thành Trí. Chuyển thức thành Trí là công phu tu hành của mọi môn phái đạo Phật. Con đường của Giác ngộđạo Phật, chỉ có qua sự tu tập. Không có công phu tu tập chúng ta sẽ không tiến được một bước quyết định nào trên con đường đó, không leo lên được một nấc thang nào trong năm mươi bốn địa vị dẫn đến quả vị Giác Ngộ. Bởi thế, khi diễn giải, chúng tôi chú trọng nhiều hơn về mặt thực hành…. « …

(Trích Bát Nhã Tâm Kinh – Thiền giải – Phần Dẫn Nhập)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12619)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14187)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10939)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10608)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11294)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12092)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13241)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13750)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33776)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11417)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 13035)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13153)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11716)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17998)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11525)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11949)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11624)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19080)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12658)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11449)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13238)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15879)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11943)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11790)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12923)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12749)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14055)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13066)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 13039)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13395)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12850)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12772)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11819)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11813)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12430)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12474)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19932)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12066)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12091)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16988)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12758)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15176)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16233)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12972)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12327)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 12011)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 12016)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13248)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16602)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13325)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12605)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11924)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19961)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11259)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11355)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10498)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11174)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11040)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10115)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11827)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant