Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Phép Tu Sa-di (Pabbajitavidhī)

02 Tháng Năm 201000:00(Xem: 5253)
03. Phép Tu Sa-di (Pabbajitavidhī)
LUẬT NGHI TỔNG QUÁT
Tỳ Kheo GIÁC GIỚI
Ấn bản 2003
Lưu ý: Đọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)

03. PHÉP TU SA-DI (PABBAJITAVIDHĪ)

Sự truyền giới xuất gia cho một thiện nam tử để trở thành một vị Sa-di (sāmaṇera), gọi là phép tu Sa-di.

Về nghi thức cho tu Sa-di không cần đến tăng sự tuyên ngôn (ñatti). Một vị Tỳ-kheo trưởng lão làm Thầy Tế Độ của Thiện nam tử ấy trước sự chứng minh của vài vị Tỳ-kheo hay Tăng chúng cũng tốt.

Trước tiên, giới tử phải tìm đủ y và bát, cạo bỏ râu tóc, cầm y bát đến trước mặt vị thầy tế độ, sau khi đảnh lễ Ngài ba lạy, xong đứng lên chắp tay nghiêm trang, tác bạch như sau:

"Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā pabbajjaṃ detha me bhante".

Bạch ngài, con thành kính đảnh lễ Ngài. Bạch ngài, xin hãy xá tội lỗi cho con: phước báu con đã làm xin Ngài tùy hỷ, phước báu Ngài đã tạo hãy cho đến con, lành thay! con xin tùy hỷ. Bạch ngài, kính xin Ngài hãy vì lòng bi mẫn mà cho con xuất gia.

Rồi ngồi xuống theo thế ngồi chòm hổm, chắp tay lên nói tiếp:

"Ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi; dutiyampi ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi; tatiyampi ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi".

Bạch ngài, con cầu xin được xuất gia; lần thứ nhì, con cầu xin được xuất gia; lần thứ ba, con cầu xin được xuất gia.

Kế đến giới tử cầm lấy bộ y ca-sa dâng đến tay Thầy Tế Độtác bạch như sau:

"Sabbadukkhanissaraṇanibbānasacchikaraṇat-thāya imaṃ kāsāvaṃ gahetvā pabbājetha maṃ bhan-te anukampaṃ upādāya" (nói ba lần).

mục đích chứng ngộ níp bàn và thoát mọi khổ đau, Bạch ngài, xin ngài vì lòng bi mẫnthu nhận y cà sa nầy và cho con xuất gia.

Giới tử lại đọc lời nầy để xin y ca sa:

"Sabbadukkhanissaraṇanibbānasacchikaraṇat-thāya etaṃ kāsāvaṃ datvā pabbājetha maṃ bhante anukampaṃ upādāya" (nói ba lần).

mục đích chứng ngộ níp bàn và thoát mọi khổ đau, Bạch ngài, xin ngài vì lòng bi mẫn mà cho lại con y cà sa đó và cho con xuất gia.

Khi giới tử dứt lời, Thầy Hòa Thượng hãy cho lại y ca sa cho giới tử và dạy sơ lược về cách quán tưởng khi mặc y phục, đồng thời dạy về đề mục niệm thân thể trược, và giới tử phải nói theo từng đề mục như sau:

"Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā".
Tóc, lông, móng, răng, da; da, răng, móng, lông tóc.

Xong rồi giới tử lui ra đến chỗ khuất mà thay đổi tướng mạo mặc y ca sa vào nghiêm trang đúng luật, mới trở lại trước mặc Thầy Hòa thượng đảnh lễ ngài ba lạy, và đứng lên chắp tay tác bạch xin thọ qui giới, như sau:

"Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāṣa kāruññaṃ katvā tisaraṇena saha sīlāni detha me bhante."

Nghĩa như trước, đoạn cuối nghĩa là: Bạch ngài, xin hãy bi mẫn truyền qui giới cho con.

Đoạn ngồi chồm hổm chắp tay đọc tiếp:

"Ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi, dutiyampi ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi, tatiyampi ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi".

Bạch Ngài, con cầu xin thọ qui giới, lần thứ nhì ... lần thứ ba ...).

Thầy Hòa thượng phán:

"Yam-ahaṃ vadāmi taṃ vadehi"
Ta nói lời nào ngươi hãy nói theo lời ấy.

Giới tử lãnh giáo:

"Āma bhante" xin vâng, bạch Ngài.

Thầy Hòa Thượng niệm Phậtgiới tử cũng làm theo:

Namo tassa bhagavato arahato sammā sambuddhassa.
Kính lễ Đức Thế Tôn, Ưng cúng, Chánh Biến Tri (ba lần).

Tiếp đến, Thầy Hòa thượng truyền dạy giới tử thọ tam qui, đọc hai giọng Nam và Bắc phạn:

- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật).
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp).
- Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Tăng).

- Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật, lần thứ nhì).
- Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp, lần thứ nhì).
- Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y tăng, lần thứ nhì).

- Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật, lần thứ ba).
- Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp, lần thứ ba).
- Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Tăng, lần thứ ba).

Phải đọc lại tam qui một lần nữa bằng giọng Bắc. Phân biệt giữa giọng Nam và giọng Bắc. Giọng Nam phát âm mũi (nāsikaja) như "Buddhaṃ (ṃ) saraṇaṃ (ṃ) gacchāmi" ...; còn giọng Bắc là phát âm môi (oṭṭhaja) hợp với âm mũi (nāsikaja) như "buddham (m) saraṇam (m) gacchāmi" ... vì rằng phẩm mạo Sa-di được thành tựu hay không do sau lời tuyên thệ tam qui (tisaraṇagamana), nên phải phát âm cho đúng chuẩn tiếng phạn.

Sau phần giới tử đã thọ tam qui, Thầy Hòa Thượng nhắc nhở:

"Tisaranaggahanaṃ paripuṇṇaṃ" (phép thọ trì tam qui đã tròn đủ).

Sa-di lãnh giáo: "Āma bhante".

Thầy Hòa thượng tiếp tục truyền thọ thập giới cho sa-di:

1. Pāṇāṭipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādi-yāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng sát sanh).

2. Adiṇṇādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādi-yāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng trộm cắp).

3. Abrahmacariyā veramaṇī sikkhāpadaṃ sa-mādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng hành dâm).

4. Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādi-yāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng nói dối).

5. Surāmerayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng uống rượu dể duôi).

6. Vikālabhojanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samā-diyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng ăn phi thời).

7. Naccagītavāditavisūkadassanā veramaṇī sik-khāpadaṃ samādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng sự ca nhạc khiêu vũ).

8. Mālāgandhavilepanadhāranamaṇḍanavibhūsaṇaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng sự trang điểm đeo tràng hoa xức hương liệu).

9. Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī sikkhāpa-daṃ samādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng chỗ nằm ngồi cao rộng).

10. Jātarūparajatappaṭiggahanā veramaṇī sik-khāpadaṃ samādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng thọ nhận vàng bạc châu báu).

Kết luận, đọc ba lần như sau:

"Imāni dasa sikkhāpadāni samādiyāmi" (Tôi xin thọ trì cả mười điều nầy).

Sa-di đã được truyền thọ mười giới như vậy rồi, đảnh lễ Thầy Hòa thượng.

*

Tiếp theo đó là làm nghi thức bái sư và xin y chỉ (nissaya).

Sa-di đứng lên trước mặt Thầy Hòa thượng, chắp tay tác bạch như sau:

"Vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khama-tha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumo-ditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā nissayaṃ detha me bhante."

Bạch ngài, con xin đảnh lễ ngài v.v...bạch Ngài, xin ngài từ bi cho con y chỉ.

Phục xuống ngồi chồm hổm chắp tay, đọc tiếp:

"Ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi, dutiyampi ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi, tatiyampi ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi".

"Upajjhāyo me bhante hoti".

Bạch ngài, con cầu xin pháp y chỉ, lần thứ nhì, lần thứ ba ... bạch ngài, xin hãy là Thầy tế độ của con.

Vị Hòa thượng chấp nhận bằng lời:

" Sādhu!" - Tốt lắm!

Hoặc: lāhu, paṭirūpaṃ, opāyikaṃ, pāsādikena, sampādehi ... một tiếng nào cũng được.

Sa-di cúi đầu bái nhận bằng lời:

"Ukāsa sampaṭicchāmi. Sampaṭicchāmi. Sam-paṭicchāmi".
Con xin lãnh hội, Con xin lãnh hội, Con xin lãnh hội.

Vẫn tiếp tục nói:

"Ajjatagge dāni thero mayhaṃ bhāro, ahampi therassa bhāro" (ba lần).
Kể từ hôm nay trưởng lãotrọng trách của con, phần con cũng là trọng trách của trưởng lão.

Xong Sa-di đảnh lễ thầy ba lạy và ngồi xuống nơi phải lẽ để nghe thầy dạy dỗ ... từ đây vị Sa-di nầy phải làm tròn các bổn phận của vị đệ tử đối với Thầy Tế độ, phải luôn luôn tinh tấn học tập và trau giồi phẩm hạnh Sa-di trong thời gian chưa được tu lên bậc trên.

DỨT PHÉP TU SA DI

-ooOoo-
 
PHÉP TRUYỀN CỤ TÚC GIỚI
(UPASAMPADĀ)

Lễ truyền cụ túc giới là sự tế độ cho một thiện nam tử hay vị sa-di được đắc thành tăng tướng Tỳ-kheo.

Phép truyền cụ túc giới nhất định phải theo qui cách luật chế định mà Đức Thế Tôn đã ban hành từ xưa. Tăng sự này phải được thực hiện trải qua nhiều giai đoạn tuyên ngôn; tăng hội chứng minh phải có túc số tối thiểu là mười vị Tỳ-kheo, ở tại Ấn Quốc độ bắt buộc phải có tăng hội từ hai mươi vị mới được phép truyền cụ túc giới; tăng sự phải được tiến hành trong sīmā, và giới tử (người thọ cụ túc) phải là người nam, người công dân hợp pháp, phải sắm đủ y bát, được cha mẹ hoặc người bảo hộ cho phép, tuổi phải đủ trên hai mươi.

Trong tăng sự sẽ có một vị trưởng lão đức hạnh đủ hạ lạp để làm thầy tế độ (upajjhāyo) của giới tử, phải có một hoặc hai vị Tỳ-kheo thông hiểu luật nghi và tiếng pàli để hướng dẫn giới tử và bạch trình tuyên ngôn đến tăng, vị này gọi là thầy yết-ma (Kammavācācariya) .

Cách thức tăng sự.

Trước tiên thầy yết-ma đặt tên tạm để ám chỉ thầy tế độgiới tử như sau; khi thầy yết-ma hỏi hoặc nói điều gì, giới tử phải trả lời cho hợp lý:

Āc. Tvaṃ nāgo nāma.
Ngươi tên là Nāga.

Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.

Āc. Tuyhaṃ upajjhāyo āyasmā tissatthero nāma.
Thầy tế độ của ngươi là ngài trưởng lão Tissa.

Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.

Tiếp đến thầy yết-ma kiểm tra đầy đủ tam ybình bát của giới tử:

Āc. Paṭhamaṃ upajjhaṃ gāhāpetabbo upaj-jhaṃ gāhāpetvā pattacīvaraṃ ācikkhitabbaṃ. Ayan-te patto.
Trước tiên phải cho nhận thầy tế độ, sau khi bái sư phải trình bày y bát. Đây là bát của ngươi!

Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.

Āc. Ayaṃ saṅghāṭi
Đây là y Tăng-già-lê.

Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.

Āc. Ayaṃ uttarāsaṅgo
Đây là y uất đà la tăng.

Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.

Āc. Ayaṃ antaravāsako.
Đây là y an-đà-hội.

Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.

Āc. Gaccha amumhi okāse tiṭṭhāhi.
Hãy đi ra đứng chỗ kia.

Thầy yết-ma bảo giới tử lui ra đứng chỗ phía ngoài tăng hội rồi trở vào giữa tăng tuyên ngôn trình tăng xin được chỉ dạy giới tử:

"Suṇātu me bhante saṅgho nāgo āyasmato tissassa upasampadāpekkho. Yadi saṅghassa patta-kallaṃ ahaṃ nāgaṃ anusāseyyaṃ.

Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, nàga là đệ tử của Ngài Tissa, muốn thọ cụ túc giới. Nếu đã hợp thời với tăng, tôi xin được chỉ dạy Nāga.

Thầy yết-ma bước ra ngoài đến chỗ giới tử đứng mà dạy bảo các điều cần thiết như sau:

Suṇāsi nāga ayan te saccakālo bhūtakālo yaṃ jātaṃ taṃ saṅghamajjhe pucchante santaṃ atthī' ti vattabbaṃ asantaṃ natthī' ti vattabbaṃ. Mā kho viṭṭhāsi mā kho maṅku ahosi. Evantaṃ pucchissanti santi te evarūpā ābādhā:

Nầy Nāga, nay là lúc ngươi phải thành thật, trung thực, điều nào ngươi được hỏi giữa tăng, có thì phải nói là có, không có, phải nói không có. Ngươi đừng giấu giếm, đừng thẹn thùng. Ta sẽ hỏi ngươi những chứng bệnh như vầy ngươi có không?

Āc. Kuṭṭhaṃ?
Bệnh cùi?

Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.

Āc. Gaṇḍo?
Bệnh ung nhọt?

Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.

Āc. Kilāso?
Bệnh da liểu?

Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.

Āc. Soso?
Bệnh lao?

Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.

Āc. Apamāro?
Bệnh phong điên?

Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.

Āc. Manusso si?
Ngươi là loài người phải chăng?

Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.

Āc. Puriso' si?
Ngươi là nam nhân phải chăng?

Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.

Āc. Bhujisso' si?
Ngươi là người tự do phải chăng?

Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.

Āc. Anaṇo' si?
Ngươi là người vô nợ phải chăng?

Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.

Āc. Na' si rājabhaṭo?
Ngươi không bị quân dịch phải chăng?

Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.

Āc. Anuññāto' si mātāpitūhi?
Ngươi có được mẹ cha cho phép chăng?

Nāg. Āma bhante!
Có, thưa ngài.

Āc. Paripuṇṇavīsati vasso' si
Ngươi đủ 20 tuổi chăng?

Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.

Āc. Paripuṇṇante pattacīvaraṃ?
Y và bát của ngươi có đủ chăng?

Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.

Āc. Kinnāmo' si?
Ngươi tên là gì?

Nāg. Ahaṃ bhante nāgo nāma.
Thưa ngài, con tên là Nāga.

Āc. Ko nāmo te upajjhāyo?
Thầy tế độ của ngươi là ai?

Nāg. Upajjhāyo me bhante āyasmā Tissatthe-ro nāma.
Bạch Ngài, Thầy tế độ của con là Ngài trưởng lão Tissa.

Chỉ dạy giới tử xong rồi, Thầy yết-ma trở vào trình tăng để cho gọi giới tử, tuyên ngôn như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho nāgo āyasmato tissassa upasampadāpekkho anusiṭṭho so mayā yadi saṅghassa pattakallaṃ nāgo āgaccheyya āgacchāhī' ti vattabbo. Āgacchāhi!

Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga đệ tử của Ngài Tissa, là người muốn thọ cụ túc giới, người ấy đã được tôi chỉ dạy xong. Nếu đã hợp thời với Tăng, phải cho Nāga đi vào. Nên nói " Người đi vào". Hãy đi vào!

*

Phần giới tử khi được gọi nên bước vào giữa Tăng chúng, đảnh lễ Tăng và tác bạch xin thọ cụ túc giới, như sau:

Saṅghaṃ bhante upasampadaṃ yācāmi. Ullumpatu maṃ bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.

Dutiyampi bhante saṅghaṃ upasampadaṃ yācāmi. Ullumpatu maṃ bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.

Tatiyampi bhante saṅghaṃ upasampadaṃ yācāmi. Ullumpatu maṃ bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.

Bạch đại đức Tăng, con cầu xin thọ giới cụ túc nơi Tăng. Mong đại đức Tăng vì lòng bi mẫntế độ con.

Lần thứ nhì ... lần thứ ba ...

Sau khi giới tử đã tác bạch xin thọ cụ túc giới nơi tăng, vị yết-ma bạch trình Tăng cho phép sát hạch giới tử những điều nguyên tắc, tuyên ngôn trình Tăng như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ Nāgo āyas-mato tissassa upasampadāpekkho. Yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ nāgaṃ antarāyike dhamme puccheyyaṃ.

Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, đây là Nàga, người muốn thọ cụ túc giới, đệ tử của Tôn giả Tissa. Nếu đã hợp thời với Tăng, tôi xin được hỏi Nàga về các điều chướng ngại.

Rồi xoay qua giới tử, thầy yết-ma bắt đầu hạch hỏi:

Suṇāsi nāga ayante saccakālo bhūtakālo yaṃ jātaṃ taṃ pucchāmi santaṃ atthī' ti vattabbaṃ asantaṃ natthī' ti vattabbaṃ. Santi te evarūpā ābādhā.

Nầy Nāga, hãy nghe đây, nay là lúc ngươi phải thành thật trung thực; điều nào ta hỏi có thì nên nói là có, không có thì nói là không có. Những chứng bệnh như vầy người có không.

Āc. Kuṭṭhaṃ?

Nāg. Natthi bhante!

Āc. Gaṇḍo?

Nāg. Natthi bhante!

Āc. Kilāso?

Nāg. Natthi bhante!

Āc. Soso?

Nāg. Natthi bhante!

Āc. Apamāro?

Nāg. Natthi bhante!

Āc. Manusso' si

Nāg. Āma bhante!

Āc. Puriso' si?

Nāg. Āma bhante!

Āc. Bhujisso' si?

Nāg. Āma bhante!

Āc. Anaṇo' si?

Nāg. Āma bhante!

Āc. Na' si rājabhaṭo?

Nāg. Āma bhante!

Āc. Anuññāto' si mātāpitūhi?

Nāg. Āma bhante!

Āc. Paripuṇṇavīsativasso' si?

Nāg. Āma bhante!

Āc. Paripuṇṇante pattacīvaraṃ?

Nāg. Āma bhante!

Āc. Kinnāmo' si?

Nāg. Ahaṃ bhante Nāgo nāma.

Āc. Ko nāmo te upajjhāyo?

Nāg. Upajjhāyo me bhante āyasmā tissat-thero nāma.

(Nghĩa: Lời vấn đáp, toàn bộ đều như trước).

*

Hoàn tất nghi thức hướng dẫn giới tử, thẩm vấn luật lệ xong, vị yết-ma chính thức tác pháp yết-ma trình tăng truyền giới cụ túc, bằng tứ bạch tuyên ngôn (ñatticatutthakammavācā), như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ nāgo āyas-mato tissassa upasampadāpekkho parisuddho anta-rāyikehi dhammehi paripuṇṇassa pattacīvaraṃ. Nā-go saṅghaṃ upasampadaṃ yācati āyasmatā tissena upajjhāyena. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho nāgaṃ upasampādeyya āyasmatā tissena upajjhā-yena. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ nāgo āyas-mato tissassa upasampadāpekkho parisuddho anta-rāyikehi dhammehi paripuṇṇassa pattacīvaraṃ. Nāgo saṅghaṃ upasampadaṃ yācati āyasmatā tis-sena upajjhāyena. Saṅgho nāgaṃ upasampādeti āyasmatā tissena upajjhāyena. Yass'āyasmato kha-mati nāgassa upasampadā āyasmatā tissena upaj-jhāyena so tuṇh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Upasampanno saṅghena nāgo āyasmatā tissena upajjhāyena. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.

Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga nầy là người muốn thọ cụ túc, đệ tử của Tôn giả Tissa, đã thanh tịnh các pháp chướng ngại, và đầy đủ y bát. Nāga cầu xin thọ giới cụ túc nơi tăng, có thầy tế độTôn giả Tissa. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng nên truyền giới cụ túc cho Nāga có thầy tế độTôn giả Tissa. Đó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga nầy là người muốn thọ giới cụ túc, đệ tử của Tôn giả Tissa, đã thanh tịnh các pháp chướng ngại, và đầy đủ y bát. Nāga cầu xin thọ giới cụ túc nơi tăng, có thầy tế độTôn giả Tissa. Tăng truyền cụ túc cho Nāga, có thầy tế độTôn giả Tissa. Sự truyền cụ túc cho Nāga, có thầy tế độTôn giả Tissa nếu vị nào chấp nhận thì im lặng, như vĩ nào không chấp nhận phải nói ra. Tôi tuyên bố ý nghĩa đó lần thứ hai.

Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi .. nt ... phải nói ra. Tôi tuyên bố ý nghĩa đó lần thứ ba.

Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi ... nt ... phải nói ra. Nāga đã được Tăng truyền giới cụ túc, có Tôn giả Tissa là thầy tế độ. Tăng chấp nhận nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.

Khi dứt tứ bạch tuyên ngôn ngay lúc nào thì Thiện nam tử ấy thành tựu phẩm mạo Tỳ-kheo (bhikkhu) ngay khi ấy.

*

Phận sự của thầy tế độ tiếp theo đó phải làm đối với tân Tỳ-kheo đệ tử của mình, là phải đo bóng thời gian, tính ra ngày, tháng, năm tu của đệ tử, và đếm số tăng hội chứng minh truyền cụ túc giới hôm đó, sau nữa là chỉ dạy tân Tỳ-kheo về những điều phạm hạnh cơ bản, gồm có bốn y pháp (nissaya: pháp nương trong đời sống) và bốn bất tác pháp (akaranīya: điều không nên làm).

Việc chỉ giáo (anusāsana) nầy là phận sự của thầy tế độ (upajjhāyo), nhưng nếu Ngài già yếu không đảm trách nổi, thì giao phó việc ấy cho vị yết-ma giáo thọ đảm nhận cũng được.

PĀLI LỜI CHỈ GIÁO (ANUSĀSANA)

Tāvadeva chāyā metabbā utuppamānaṃ ācik-khitabbaṃ divasabhāgo ācikkhitabbo saṅgīti ācikkhi-tabbā cattāro nissayā ācikkhitabbā cattāri ca akara-ṇīyāni ācikkhitabbāni.

Phải đo bóng thời gian, kể mùa tiết, kể ngày giờ, đếm số tăng hội, trình bày bốn y chỉ, và chỉ dạy bốn bất tác.

Dạy bốn y chỉ (nissaya):

1."Piṇḍiyalopabhojanaṃ nissāya pabbajjā. Tattha te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho saṅghabhattaṃ uddesabhattaṃ nimantanaṃ saḷāka-bhattaṃ pakkhikaṃ uposathikaṃ pātipadikaṃ" "Āma bhante".

"Các bậc xuất gia sống nương đồ ăn khất thực. Điều đó ngươi phải trọn đời siêng năng làm theo. Có lợi lộc ngoại lệ cũng được, như là Tăng thí thức, chỉ định thực, biệt thỉnh thực, trù phù thực, bán nguyệt kỳ thực, trai kỳ thực, sơ nhựt thực".

Tân Tỳ-kheo nói: "Thưa vâng".

2." Paṃsukūlacīvaraṃ nissāya pabbajjā. Tat-tha te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho kho-maṃ kappāsikaṃ koseyyaṃkambakaṃ sānaṃ bhaṅ-gaṃ" "Āma bhante".

"Các bậc xuất gia sống nương y phấn tảo. Điều đó ngươi phải trọn đời siêng năng hành theo. Có lợi lộc ngoại lệ cũng được, như là y vải bố, y vải bông, y vải tơ tằm, y vải len, y vải lụa, y vải hổn hợp chất".

Tân tỳ-kheo nói "Thưa vâng".

3. Rukkhamūlasenāsanaṃ nissāya pabbajjā. Tattha te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho vihāro aḍḍhayogo pāsādo hammiyaṃ guhā - "Āma bhante".

"Các bậc xuất gia sống nương sàng tọa gốc cây. Điều đó ngươi phải trọn đời siêng năng làm theo. Có lợi lộc ngoại lệ cũng được, như là tịnh xá, mái che, lâu đài, dinh thự, thạch động".

Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng".

4. "Pūtimuttabhesajjaṃ nissāya pabbajjā. Tat-tha te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho sap-pi navanītaṃ telaṃ madhu phāṇitaṃ" - "Āma bhante".

"Các bậc xuất gia sống nương dược phẩm là nước tiểu thú. Điều đó ngươi phải trọn đời siêng năng làm theo. Có lợi lộc ngoại lệ cũng được, như là bơ, sữa, dầu mè, mật ong, đường mía."

Tân tỳ-kheo nói "Thưa vâng".

Dạy bốn pháp bất tác (akaraṇīya):

1. "Upasampannena bhikkhunā methuno dhammo na paṭisevitabbo antamaso tiracchānaga-tāyapi. Yo bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭisevati assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma pu-riso sīsacchinno abhabbo tena sarīrabandhanena jīvi-tuṃ evameva bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭi-sevitvā assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Tante yāva-jīvaṃ akaraṇīyaṃ". "Āma bhante! "

"Một Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới, không nên hành pháp dâm dục, cho dù với con thú cái. Vị Tỳ-kheo nào hành điều dâm dục vị ấy là phi sa môn phi Thích tử. Ví như một người bị chém đứt đầu, nó không thể sống với thân không đầu ấy; cũng như thế, vị Tỳ-kheo khi đã hành pháp dâm dục sẽ thành phi sa môn phi Thích tử. Ngươi trọn đời điều ấy không nên làm."

Tân Tỳ-kheo nói: "Thưa vâng."

2. "Upasampannena bhikkhunā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ na ādātabbaṃ antamaso tiṇasa-lākaṃ upādāya. Yo bhikkhu pādaṃ vā pādārahaṃ vā atirekapādaṃ vā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyati assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma paṇ-ḍupalāso bandhanā pamutto abhabbo haritattāya evameva bhikkhu pādaṃ vā pādārahaṃ vā atire-kapādaṃ vā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyitvā as-samaṇo hoti asakyaputtiyo. Tante yāvajīvaṃ akara-ṇīyaṃ" - "Āma bhante! ".

"Một vị Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới, không nên lấy vật chưa được cho với ý trộm cắp, cho dù là một cọng cỏ. Vị Tỳ-kheo nào lấy trộm vật chưa được cho trị giá 1 pāda [1] hoặc tương đương hoặc cao hơn, vị ấy là phi sa môn phi Thích tử. Ví như lá vàng lìa cành không còn xanh tươi nữa; cũng như thế, vị Tỳ-kheo khi đã lấy trộm vật chưa cho trị giá 1 pāda hoặc tương đương hoặc cao hơn, sẽ thành phi sa-môn phi Thích tử. Ngươi trọn đời điều ấy không nên làm".

Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng".

3. "Upasampannena bhikkhunā sañcicca pāṇo jīvitā na voropetabbo antamaso kunthakipillikaṃ upādāya. Yo bhikkhu sañcicca manussaviggahaṃ jīvi-tā voropeti antamaso gabbhapātanaṃ upādāya assa-maṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma puthusilā dvidhā bhinnā appaṭisandhikā hoti evameva bhikkhu sañciccamanussaviggahaṃ jīvitā voropetvā assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Tante yāvajīvaṃ akaraṇīyaṃ" -"Āma bhante! "

"Một vị Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới, không nên cố ý đoạt mạng sống chúng sanh, thậm chí là con mối con kiến. Vị Tỳ-kheo nào cố ý giết người cho dù chỉ trục phá thai nhi, vị ấy là phi sa môn phi Thích tử. Ví như tảng đá bị bể làm đôi không còn dính lại nữa; cũng như thế, vị Tỳ-kheo đã cố ý giết người sẽ thành phi sa-môn phi Thích tử. Ngươi trọn đời điều ấy không nên làm."

Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng".

4. "Upasampannena bhikkhunā uttari-manus-sadhammo na ullapitabbo antamaso suññagāre abhi-ramāmī' ti. Yo bhikkhu pāpiccho icchāpakato asan-taṃ abhūtaṃ uttarimanussadhammaṃ ullapati jhā-naṃ vā vimokkhaṃ vā samādhiṃ vā samāpattiṃ vā maggaṃ vā phalaṃ vā assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma tālo matthakacchinno abhabbo pu-na viruḷhiyā evameva bhikkhu pāpiccho icchāpakato asantaṃ abhūtaṃ uttarimanussadhammaṃ ullapitvā assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Tante yāvajīvaṃ aka-raṇīyaṃ" - "Āma bhante! "

"Một vị Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới, không nên kheo khoang pháp thượng nhân, thậm chí nói rằng: tôi thỏa thích ngôi nhà trống. Vị Tỳ-kheo nào ác dục tham vọng khoa trương pháp thượng nhân khôngkhông thật chứng về thiền, hoặc giải thoát, hoặc định, hoặc nhập định, hoặc đạo, hay quả, vị ấy là phi sa-môn phi Thích tử. Ví như cây thốt nốt bị đứt đọt không thể phát triển nữa; cũng như thế, vị Tỳ-kheo ác dục tham vọng đã khoa trương pháp thượng nhân khôngkhông thật chứng sẽ thành phi sa môn phi Thích tử. Ngươi trọn đời điều ấy không nên làm".

Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng" .

Đến đây đã trình bày tóm tắt luật nghi truyền giới cụ túc.

 -ooOoo-

[1] Đơn vị tiền tệ ngày xưa của xứ Ấn. 1 pāda bằng 5 māsaka, khó xác định là trị giá bao nhiêu tiền Việt Nam, chỉ biết là vật ấy giá trị có thể bị đưa tòa hình xét xử và bị tuyên án với tội danh trộm cắp tài sản, bị tước nhân phẩm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12576)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10482)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12434)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11736)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28905)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12129)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13089)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11527)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12444)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17555)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53242)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35593)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21591)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10750)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19385)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12517)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26207)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13428)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14481)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16164)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13824)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16949)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17726)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13248)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12617)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11695)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11705)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14607)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20630)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19168)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19709)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18808)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12262)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12416)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13973)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15169)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15129)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14059)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15609)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11495)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17302)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15091)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20323)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14693)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13942)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11800)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15145)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13066)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22987)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14632)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11745)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13243)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16978)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18425)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 12011)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11581)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15945)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12968)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 19006)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18561)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant