Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận

01 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 21019)
Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận

ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN
Tác Giả: Kimura Taiken

Hán Dịch: Thích Diễn Bồi - Việt Dịch: Thích Quảng Độ
Xuất Bản: Viện Đại Học Vạn Hạnh 1969 - Phật Học Viện Quốc Tế, USA 1986

MỤC LỤC

Vài Nét Về Tác Giả
THIÊN THỨ NHẤT: ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG SỬ
CHƯƠNG THỨ NHẤT
TỔNG LUẬN
Tiết thứ nhất: Địa vị Phật Giáo trong tư trào Ấn Độ.
Tiết thứ hai: Điểm tương đồng giữa tưởng Ấn Độtư tưởng Phật Giáo.
Tiết thứ ba: Đặc tính của tư tưởng Phật Giáo.
CHƯƠNG THỨ HAI
TƯ TRÀO CỦA CÁC BỘ PHÁI TRƯỚC NGÀY ĐẠI THỪA HƯNG KHỞI
Tiết thứ nhất: Nguyên ủy của các Bộ phái.
Tiết thứ hai: Sự bất đồng về lập trường chủ yếu giữa Nguyên thủy Phật giáoBộ phái Phật giáo.
Tiết thứ ba: Phật Đà Quan.
Tiết thứ tư: Hữu tình quan.
Tiết thứ năm: Tu chứng luận.
CHƯƠNG THỨ BA
ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO ĐẾN THỜI ĐẠI LONG THỤ
Tiết thứ nhất: Nguồn gốc và đặc chất của tư tưởng Đại Thừa.
Tiết thư hai: Những kinh điểntư tưởng chủ yếu của Đại Thừa trước thời Long Thụ.
Tiết thứ ba: Phật giáo quan của Long Thụ.
CHƯƠNG THỨ TƯ
ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TỪ SAU THỜI ĐẠI LONG THỤ ĐẾN THỜI ĐẠI VÔ TRƯỚCTHẾ THÂN
Tiết thứ nhất:Ý nghĩa sự kết tập những kinh điển chủ yếu của Đại Thừa đương thời.
Tiết thứ hai: Các loại kinh mới và lịch trình thành lập.
Tiết thứ ba: Đặc chất tư tưởng của các kinh điển.
Tiết thứ tư: Các kinh điển kể trên với Tiểu Thừa Giáo.
CHƯƠNG THỨ NĂM
PHẬT GIÁOTHỜI ĐẠI VÔ TRƯỚCTHẾ THÂN
Tiết thứ nhất: Tổng luận.
Tiết thứ hai: Phật giáo thuộc Vô Trước, Thế Thân (Du Già Phật Giáo).
Tiết thứ ba: Như Lai Tạng_Phật giáo của Thế Thân.
CHƯƠNG THỨ SÁU
PHẬT GIÁOTHỜI ĐẠI VÔ TRƯỚCTHẾ THÂN (THẾ KỶ VI-VIII)
THIÊN THỨ HAI: ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO LÝ LUẬN
CHƯƠNG THỨ NHẤT
BẢN CHẤT CỦA TÔN GIÁO VỚI PHẬT GIÁO
Tiết thứ nhất: Sự quan hệ giữa lý luậnthực tiễn trong Phật Giáo.
Tiết thứ hai: Phật Giáo có phải là tôn giáo không.
Tiết thứ ba: Phật Giáo với sự thực tôn giáo.
Tiết thứ tư: Bản chất của những đòi hỏi tôn giáo.
Tiết thứ năm: Sự mong muốn một sự sống vô hạn và yêu cầu giải thoát.
Tiết thứ sáu: Sự thỏa mãn yêu cầu tôn giáo với nhất tâm.
CHƯƠNG THỨ HAI
GIẢI THOÁT LUẬN
Tiết thứ nhất: Gợi ý.
Tiết thứ hai: Ý nghĩa và các giải thoát quan Ấn Độ.
Tiết thứ ba: Đặc chất của giải thoát quan Phật Giáo.
CHƯƠNG THỨ BA
ĐẶC CHẤT PHẬT GIÁO TẠI BA QUỐC GIA
Tiết thứ nhất: Nguyên thủy Phật giáoBộ phái Phật giáo.
Tiết thứ hai: Đặc chất của Đại Thừa Phật Giáo.
Tiết thứ ba: Đặc chất của Phật Giáo Trung QuốcPhật Giáo Nhật Bản.
CHƯƠNG THỨ TƯ
TINH THẦN CỦA ĐẠI THỪA
Tiết thứ nhất: Tiểu Thừa là gì?
Tiết thứ hai: Chủ nghĩa tinh thần của Đại Thừa.
Tiết thứ ba: Đứng trên lập trường hình thức để quan sát Tiểu ThừaĐại Thừa.
Tiết thứ tư: Sự bất đồng về nội dung.
Tiết thứ năm: Chân không diệu hữu với lập trường của các kinh điển Đại Thừa.
Tiết thứ sáu: Thực hiện tinh thần Đại Thừa.
CHƯƠNG THỨ NĂM
CHÂN NHƯ QUAN CỦA PHẬT GIÁO
(Đặc biệt lấy Bát Nhã làm trung tâm)
Tiết thứ nhất: Lời tựa.
Tiết thứ hai: Sự triển khai của tư tưởng Chân Như đến thời kỳ Bát Nhã.
Tiết thứ ba: Lập trường toàn bộ của Bát Nhã.
Tiết thứ tư: Chân như quan của Bát Nhã.
CHƯƠNG THỨ SÁU
THIỀN VÀ Ý NGHĨA TRIẾT HỌC
Tiết thứ nhất: Ý nghĩa của Thiền.
Tiết thứ hai: Các loại Thiền.
Tiết thứ ba: Tự ngã là gì?
Tiết thứ tư: Cái ta tuyệt đối.
Tiết thứ năm: Phương pháp thực hiện Đại-ngã và Thiền.
Tiết thứ sáu: Đặc sắc của Đạt Ma Thiền.
CHƯƠNG THỨ BẢY
SỰ KHAI TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO VÀ SỰ KHẢO SÁT VỀ THIỀN
Tiết thứ nhất: Địa vị của Thiền trong Phật Giáo.
Tiết thứ hai: Thiền quán: Mẫu thai của giáo lý.
Tiết thứ ba: Nội dung của Thiền.
Tiết thứ tư: Sự phổ biến hóa nội dung Thiền quán.
Tiết thứ năm: Thiền quánphương pháp nhận thức.
CHƯƠNG THỨ TÁM
TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO VỚI VĂN HÓA SỬ
Tiết thứ nhất: Đức Phật với tư trào thời đại.
Tiết thứ hai: Kinh điển Đại Thừa với bối cảnh văn hóa sử.
Tiết thứ ba: Kinh điển Đại Thừa với sự biểu hiện nghệ thuật.
CHƯƠNG THỨ CHÍN
KINH PHÁP HOA
(Đại biểu cho đạo Bồ Tát)
Tiết thứ nhất: Ý nghĩa sự xuất hiện kinh Pháp-Hoa.
Tiết thứ hai: Sự tổ chức của kinh Pháp-Hoa.
Tiết thứ ba: Quan niệm chủ yếu của kinh Pháp-Hoa.
Tiết thứ tư: Quyển Hội Tam Quy Nhất, Thụ Ký Thành Phật (quan niệm chủ yếu của Tích Môn).
Tiết thứ năm: Phật Pháp vĩnh viễn (tư tưởng trung tâm của Bản Môn)
Tiết thứ sáu: Đạo Bồ Tát: Pháp thân hoạt động cụ thể (lấy kinh Quan Âm làm trrung tâm).
THIÊN THỨ BA: ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO THỰC TIỄN LUẬN
CHƯƠNG THỨ NHẤT
Ý NGHĨA ĐẠO ĐỨC
Tiết thứ nhất: Gợi đề.
Tiết thứ hai: Ý nghĩa đạo đức trong Phật Giáo Nguyên Thủy.
Tiết thứ ba: Đại Thừa giáo tổng hợp.
Tiết thứ tư: Chân Không Diệu Hữu.
Tiết thứ năm: Bất trụ Niết Bàn.
Tiết thứ sáu: Kết luận.
CHƯƠNG THỨ HAI
QUAN NIỆM VỀ NGHIỆP CỦA PHẬT GIÁO VỚI TỰ DO Ý CHÍ
Tiết thứ nhất: Phạm vi của vấn đề.
Tiết thứ hai: Căn cứ của tính cáchý chí tự do.
Tiết thứ ba: Tư tưởng Đại Thừa với những quan niệm trên.
CHƯƠNG THỨ BA
CHỦ NGHĨA TỰ LỰCCHỦ NGHĨA THA LỰC
Tiết thứ nhất: Tự lựcTha lực của ngoại giáo.
Tiết thứ hai: Sự triển khai của thuyết Tự lựcTha lực trong Phật Giáo.
Tiết thứ ba: Bản chất hoạt động của sinh mệnh.
Tiết thứ tư: Yêu cầu vô hạn của sinh mệnh với ý thức tôn giáo.
Tiết thứ năm: Sự thực hiện sinh mệnh vô hạn với thuyết tự lựctha lực.
Tiết thứ sáu: Sự quan hệ giữa tự lựctha lực.
Tiết thứ bảy: Phương pháp điều hòa giữa tự lựctha lực.
CHƯƠNG THỨ TƯ
Ý NGHĨ CUỘC ĐỜI
Tiết thứ nhất: Yêu cầu xác lập nhân sinh quan.
Tiết thứ hai: Tiêu chuẩn phê phán giá trị cuộc đời.
Tiết thứ ba: Chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa yếm thế.
Tiết thứ tư: Hai phương diện mâu thuẫn của cuộc đời.
Tiết thứ năm: Sự mâu thuẫn của cuộc đời với quan niệm khổ.
Tiết thứ sáu: Giá trị cuộc đời theo quan niệm Phật Giáo.
Tiết thứ bảy: Ý nghĩa cuộc sinh hoạt với quan niệm khổ.
Tiết thứ tám: Văn hóa dùng phương pháp tiêu cực để khắc phục khổ.
Tiết thứ chín: Xét về ý nghĩa văn hóa theo quan niệm Phật Giáo
Tiết thứ mười: Sự cải tạo tâm với bạt khổ dữ lạc.
Tiết mười một: Sự ức chế những cảm giác tham cầu với sự diệt khổ.
Tiết mười hai: Đạo Bồ Tát: phương pháp diệt khổ.
Tiết mười ba: Tinh thần căn bản của đạo Bồ Tát.
Tiết mười bốn: Bồ Tát đạo với Tịnh Độ
Tiết mười lăm: Thế giới lý tưởngTịnh Độ.
Tiết mười sáu: Sự kiến thiết Tịnh Độluân hồi.
Tiết mười bảy: Kết luận.
CHƯƠNG THỨ NĂM
SỰ TRIỂN KHAI CỦA TƯ TƯỞNG BẢN NGUYỆNÝ NGHĨA ĐẠO ĐỨCVĂN HÓA CỦA NÓ
Tiết thứ nhất: Lời mở đầu.
Tiết thứ hai: Sự khai triển của tư tưởng bản nguyện (Lấy số nguyện làm tiêu chuẩn).
Tiết thứ ba: Ý nghĩa đạo đức, văn hóatôn giáo trong tư tưởng bản nguyện.
CHƯƠNG THỨ SÁU
TỊNH ĐỘ QUAN NIỆM, TỊNH ĐỘ THỰC TẠITỊNH ĐỘ SINH THÀNH
Tiết thứ nhất: Thiền ĐịnhTịnh Độ.
Tiết thứ hai: Điểm lợi, hại của thuyết quan niệm và thuyết thực tại.
Tiết thứ ba: Thuyết sinh thành thống hợp hai thuyết trên.
CHƯƠNG THỨ BẢY
HIỆN THỰCTỊNH ĐỘ
Tiết thứ nhất: Hai sứ mệnh của Phật Giáo.
Tiết thứ hai: Lý tưởng Tịnh Độ kết hợp hai sứ mệnh lớn.
Tiết thứ ba: Quán chiếu Tịnh Độ.
Tiết thứ tư: Tha phương Tịnh Độ.
Tiết thứ năm: Tịnh Độ tương lai trên cõi này.
Tiết thứ sáu: Kết luận.
CHƯƠNG THỨ TÁM
Ý NGHĨA CHÍNH TRỊ
Tiết thứ nhất: Căn cứ chính trị quan của Phật Giáo.
Tiết thứ hai: Nguồn gốc Quốc Gia.
Tiết thứ ba: Chính trị đối với các quốc gia đối lập
Tiết thứ tư: Quốc gia lý tưởngchính đạo.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12619)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14185)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10934)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10606)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11293)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12090)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13241)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13747)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33774)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11417)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 13034)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13153)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11716)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17997)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11522)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11949)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11624)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19073)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12658)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11447)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13237)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15879)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11942)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11789)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12921)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12747)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14053)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13065)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 13035)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13391)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12849)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12770)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11819)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11812)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12427)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12472)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19930)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12065)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12090)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16987)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12758)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15175)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16232)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12970)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12326)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 12009)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 12016)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13248)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16601)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13324)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12603)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11923)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19959)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11259)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11355)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10498)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11172)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11040)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10115)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11827)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant