Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lá Thư Thay Lời Tựa

28 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7095)
Lá Thư Thay Lời Tựa

Trí Khải Đại Sư 
PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA

PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG

Nguyên tác: The Profound Meaning of the Lotus Sutra by Haiyan Shen - Từ Hoa dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2008

 

Lá thư thay lời tựa

Trong số chín bản kinh Đại thừa được biết như Phương Đẳng (Vaipulya sutra), kinh Pháp Hoa quan trọng nhất, là bản kinh đại biểu và cực kỳ phổ thông. Thánh điển nầy được xem là giáo pháp cuối cùngtối thượng của Thế Tôn, cùng lúc vừa là nền tảng vừa là cực điểm vinh quang của tư tưởnghành trì thuộc Phật giáo. Bản kinh tự nói lên là ‘vua của các Kinh’, là phần tinh túythâm diệu nhất của giáo pháp Thế Tôn. Tàng kinh xưng tánsùng bái Phật cùng khen ngợi Bồ tát hạnh. Bản kinh hứa hẹn rằng theo đường Phật giúp chúng sinh đạt đến giải thoát và đến mục tiêu cuối cùng, thành Phật. Bản kinh biểu dương Phật giáo như vị cứu tinh hoặc là một tôn giáo mang lại tự do, ban vô úycứu khổ hằng triệu người trên toàn thể Á Châu. Điều nầy cũng giải thích cho sự siêu quần của giáo pháp. ngôn từ của thánh điển rất biểu thị, dẩn khởi và chiêu cảm. Tư tưởng được diễn bày, học thuyết sâu sắc và những nhắn gởi được thông đạt qua những ẩn dụtương tự những sự ám chỉ ngấm ngầm cần được đưa ra.

Giáo pháp kinh Pháp Hoa biện minh học thuyết Nhất Thừa (Ekayama) là giáo thuyết bao hàm và dung hòa Thanh văn, Duyên giácBồ tát. Giáo nghĩa giải thích nguyên lý Không. Không cũng được diễn tả như Tathata, Samata, Dharmakaya, Nirvana, Paramartha, Satya, Parinispana, Madyamapratipad v.v... Trong một đường hướng hy hữu, bản kinh đưa ra học thuyết Nhị Đế của Long Thọ Bồ Tát để làm thế nào hai chân lý Thế Tục đếThắng Nghĩa đế được phân biệt, liên quantối thượng. Thế tục đế có cho đời sống thế gianthắng nghĩa đế có để đạt đến Niết bàn. Thực tại là một nhưng có hai đường lối trực nghiệm. Rốt ráo, không hề có một khác biệt mảy may giữa hai điều trên. Thế tục đếphương tiệnthắng nghĩa đếmục tiêu.

Tựa đề tập sách nầy rất dẩn khởi và ý nghĩa. Các nhà chú giảihọc giả khác nhau đã chia ra nhiều phân nhánh sâu rộng về tựa đề nầy. Danh từ Saddharma nghĩa là pháp như thực hoặc cái nhìn về đường lối của đời và thực tại. Danh từ Pundarika tiêu biểu cho hoa sen trắngbiểu tượng của sự thuần khiết, toàn hảo và là biểu trưng cho sự tinh vẹn. Pháp được Phật thuyết ra và thực hành có thể sánh với hoa sen trắng. Một trong những ý nghĩa như hoa sen mọc trong nước bùn lầy nhưng không bị ô nhiểm và không ngừng lan tỏa hương thơm, như pháp Phật đã bừng lên từ những hỗn loạn của địa cầu nhưng đã phổ độ cho muôn loài vượt qua sợ hải. Xa hơn, chúng sinh được khuyến nhủ nhận ra Phật tánh qua hạnh nguyện Bồ Tát, là người sống giữa đời ác trược nhưng không bị ảnh hưởng ví như hoa sen vươn lên từ vũng lầy nhưng không mất hương thơm. Điều tương tự nầy cũng tìm thấy trong thánh thư Bhagavadgita là bản văn tiêu biểu cho văn hóa Ấn Độ.

Dựa vào kinh Pháp Hoa, Thiên Thai tông của Phật giáo Trung Hoa đã ra đời. Tên của tông phái được đặt theo tên ngọn núi Thiên Thai nơi vị sáng lập tông phái sống. Tông phái nầy được đặc biệt công nhậntông phái Phật giáo đầu tiên ở Trung quốc, mặc dù trước Thiên Thai tông cũng có những tông phái sớm hơn mang ảnh hưởng dân tộc Ấn. Thiên Thai tông nhìn kinh Pháp Hoa như một bản kinh đầy uy lực vi diệu trong văn hóatư tưởng Phật giáo. Sắc thái đặc thù của Thiên Thai tông hiển minh Tam Đế, được gọi là ‘bất khả tư nghì’ dựa vào học thuyết Trung Đạo của Long Thọ Bồ Tát song đôi với tông phái Duy Thức (Vijnanavada) của Thết Thân (Vasubandhu) và những tông phái khác. Học thuyết về Tam Đế là :

(a) Không quán : hủy diệt ảo tưởng của ý niệm từ giác quan và đưa về trí tuệ bát Nhã.

(b) Giả quán : xóa tan sự ô nhiểm của thế giớimang đến sự cứu rổi cho tất cả tội lổi.

(c) Trung quán : Hủy diệt ảo ảnh là nguồn gốc của vô minhđạt đến trí tuệ giải thoát.

Triết thuyết nền tảng của tông Thiên Thai có thể được biểu trưng bằng một vòng tròn đồng tâm, ví như vòng tròn trong vòng tròn, tất cả vòng tròn có chung một tâm điểm. Đó là một-trong-ba và ba-trong-một. Một vòng tròn là Không (samsara). Vòng thứ hai là vòng tròn của Niết Bàn (Nirvana) hoặc như thực, bao gồm vòng tròn đầu tiên. Vòng thứ ba là vòng tròn đồng nhất giữa Không và Niết Bàn. Tất cả hòa nhập vào một vòng tròn viên mãn. Một vòng tròn vô thủy vô chung nên là biểu tượng toàn hảo cho thể tánh.

Trí Khải Đại Sư là người sáng lập ra tông Thiên Thai. Đại sư là một thiền sư và cũng là một nhà tư tưởng vĩ đại, người mà sự hiểu biếtchú giải giáo thuyết và phương pháp hành trì của Phật giáo căn cứ trên cái học thâm viễn cũng như thực chứng thiền định của riêng mình, đã đưa Đại sư đến chỗ thấy và nhận ra được Phật tánh trong thể tánh tinh vẹn nhất, chân thực nhất như Trung Đạo. Trí Khải có được một trí tuệ đầy sáng tạo, tinh tuyền và thấm nhuần. Đại Sưtác giả của nhiều tác phẩm, nhưng tác phẩm quan trọng nhất được gọi là ‘Tam Đại Bộ của tông Thiên Thai’. Đại Sư đã chú giải kinh Pháp Hoa, kinh Đại Bát Nhã Ba La Mậtkinh Đại Niết Bàn. Tuy nhiên, với Trí Khải, kinh Pháp Hoa được nhìn như một toát yếu của giáo pháp Thế Tôn. Dựa vào thánh điển nầy, Đại Sư biên soạn tập ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa’.Về giá trị của tập sách nầy, giáo sư Haiyan Shen viết như sau: ‘...vì tánh chất của Huyền Nghĩa, một chú giảihệ thống bộ kinh Pháp Hoa, giáo pháp tối thượng của Thế Tôn, đã trở nên một tác phẩm thâm diệu nhất, chứa đựng hầu hết hệ thống tư tưởng và minh triết của Trí Khải Đại Sư trong lảnh vực Phật giáo. Chuyên chở những đề mục lớn trong kinh Pháp Hoa liên quan đến chân lý rốt ráo Nhất thừa, Đại Sư có thể hiển dương triết học của riêng Đại Sư về Phật giáo.’(p.xiv)

Với mục đích giải thích tư tưởng của mình, Trí Khải đã chọn chú giải kinh Pháp Hoa bởi vì theo Đại Sư bản kinh nầy hòa hợp yếu tính của tất cả những kinh khác. Lời kinh thâm nhập hài hòa đã được Trí Khải ôm ấp và đưa đường tư tưởng của Đại Sư. Trong sự chú nghĩa và giải thích nội dung kinh Pháp Hoa, Trí Khải đã phô bày một năng khiếu chú giải thánh điển hiếm có, đưa ra nhiều ẩn tàng quan trọng, mầm mống khó nắm bắt như hoa sen và những điều tương tự khác gồm chứa trong bản văn. Đại Sư giải đáp những ý nghĩa thâm sâu của bản kinh, nếu không, thì rất khó mà lảnh hội được và từ đó tái lập tư tưởng Phật học với tri giải đầy uy thế về những thánh thư còn lại. Trí Khải giải thích các bản kinh trong đường lối như tấu lên một cung đàn cùng âm giai hòa hợp với các ý thức hệ Khổng giáoLão giáo. Như vậy, trong nổ lực đưa đường nét Trung Hoa vào Phật giáo, Đại Sư đã hòa đồng Phật giáo, Khổng GiáoLão giáo. Điều nầy thực sự là một nhu cầu của mọi thời và Trí Khải đã hoàn tất trong một phương cách thiện xảo

Tập sách với tựa đề ‘ Pháp Hoa Huyền Nghĩa’(The Profound Meaning of the Lotus Sutra) của giáo sư Haiyan Shen là một thuyết minh uyên bác, tràn đầy tư tưởng và tường tận về giáo thuyết Phật Đà của Trí Khải Đại Sư là giáo thuyết đã xây dựng nền tảng cho thể cách của một tông phái danh tiếng, Thiên Thai tông. Căn cứ vào những khảo sát về các tác phẩm của Trí Khải Đại Sư và những áng văn chú giải trong lảnh vực nầy, đây là một khảo cứu cần mẩn và trong sáng, xứng đáng được tất cả tán dương. Tập sách triển khai minh tuệ luận lý, biệt tài phân tích và tư tưởng thấm nhuần của giáo sư.

Với nội dung chi tiết và khéo sắp xếp, những ghi chú tường tận và thư tịch rộng rãi, tập sách biểu hiệu một khảo cưú đáng kể về Thiên Thai tông. Từ đó có thể chứng minh là một đánh dấu quan trọng và cũng là một cống hiến ý nghĩa cho sự khảo nghiệm về tông phái nầy trong Phật học Trung Hoa. Giáo sư xứng đáng nhận lời chúc mừng về khảo sát thông thái nầy, chắc chắn sẽ trở nên một điểm quan trọng trong Phật giáo Trung quốc. Dù rằng tập sách chỉ nghiên cưú và phân tích một trong nhiều tác phẩm của Trí Khải Đại Sư, sự chọn lựa của tập sách nầy rất ý nghĩa, vì như Giáo sư đã viết, tác phẩm được chọn biểu trưng đầy uy lực. Giáo sư viết: ‘Tác phẩm độc đáo nầy, với trí lực tuôn chảy đã làm được một công trình vĩnh cửu, đưa ra một quan điểm toàn triệt về toàn thể hệ thống Phật giáo. Hầu hết giáo nghĩa và khái niệm Phật học rải rác khắp nơi qua nhiều thánh điển khác nhau đã được Trí Khải hợp lại vào hệ thống chú giải của Đại Sư bằng cách xác định lại để từ đó có thể hình thành một giáo pháp liên kết chặt chẻ toàn thể những lời dạy của Thế Tôn, bao gồm tất cả những học phái Phật giáo có mặt vào thời Trí Khải Đại Sư.’( p.XVI).

Hy vọng rằng tập sách nầy sẽ được sự chú ý của nhiều học giả trên thế giới trong lảnh vực Phật học và Hán học. Chắc chắn sẽ giúp ích trong sự tìm hiểu tư tưởng căn bản của tông Thiên Thai và minh triết toàn vẹn hài hòa của Trí Khải đã cống hiến rất nhiều vào sự thành hình Phật giáo Trung Hoa.

S.R.Bhatt
Cưụ Giáo sư và Khoa trưởng
Phân khoa Triết học, Đại học Delhi
Mp 23, Pitam Pura
Delhi, 110088
India
Ngày 20 tháng 7, 2005
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12563)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10481)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12427)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11731)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28893)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12115)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13084)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11512)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12440)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17538)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53219)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35589)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21580)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10745)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19369)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12515)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26197)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13420)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14474)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16158)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13812)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16941)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17721)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13239)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12608)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11691)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11701)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14598)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20612)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19154)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19700)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18801)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12260)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12410)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13962)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15162)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15125)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14057)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15602)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11484)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17295)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15079)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20318)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14690)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13934)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11795)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15141)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13064)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22976)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14619)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11744)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13239)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16965)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18417)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 12000)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11572)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15937)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12962)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 19000)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18541)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant