KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.29. TÀ MẠNG TỰ HOẠT GIỚI
(Giới ngăn cấm
mưu sinh bằng những tà nghiệp)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử dĩ ác tâm cố...” cho đến câu “...phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử dùng ác tâm vì lợi dưỡng mà buôn bán nam sắc, nữ sắc, tự tay làm đồ ăn, tự xay, tự giã, xem tướng, bàn mộng, đoán sẽ sanh trai hay gái, dùng bùa chú, pháp thuật, làm nghề nuôi ó và chó săn, nghĩ ra phương pháp hòa hiệp trăm thứ thuốc độc, nghìn thứ thuốc độc: độc rắn, độc sanh kim ngân, độc sâu cổ, đều là không có lòng từ bi, hiếu thuận. Nếu cố làm các điều ác như thế, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Lời giảng
Giới trước là
giới ngăn cấm những lỗi trái nghịch với phước điền thù thắng, làm cho thiện căn
công đức không được tăng trưởng.
Giới này ngăn
cấm việc học tập những nghề nghiệp hạ liệt thông thường, để tránh sự tăng
trưởng ác tâm, tạo các ác nghiệp.
Mọi người muốn
tồn tại trên thế gian này đều phải tìm cách duy trì sự sống. Điều ấy không ai
có thể phủ nhận. Nhưng sự sinh hoạt có chính đáng hay không, đó là vấn đề cần
phải chú ý.
Đối với người
Phật tử tại gia học Phật, chỉ nên đảm nhiệm những chức vụ chính đáng trong quốc
gia, hay mưu cầu sự sống bằng những nghề nghiệp hợp pháp và chân chính như: làm
ruộng, buôn bán, làm thợ, dạy học v.v... mới là những sinh hoạt kinh tế chính
đáng thông thường. Trái lại, nếu làm những điều phi pháp, tội ác như sát sanh,
trộm cắp, dâm dật, bán rượu, coi bói, chú thuật, cân non, cân già, đấu lớn, đấu
nhỏ v.v... đều không thể được, và chắn chắn sẽ gặp hậu quả bi thảm.
Đối với hàng
Phật tử xuất gia, bất luận là tỳ kheo hay Bồ Tát, đều phải sống theo lối chánh
mạng hay tịnh mạng, tuyệt đối không được làm theo tà mạng để tự nuôi
sống.
Tà mạng là ngược
với chánh mạng; là sự tự nuôi sống khôngười có tâm vì người khác. Nếu dùng
những phương pháp không chính đáng để được các thứ nhu dụng cho đời sống thì dù
đời sống của bạn thật sung sướng, hạnh phúc, thậm chí còn được những người
thiển kiến trong xã hội hâm mộ, nhưng đối với Phật pháp thuần túy chân chính,
thì bạn đã mất hẳn tư cách của một Thích tử. Vì những lối sống ấy, ngay cả các
tín sĩ thanh tịnh tại gia học Phật, cũng đều không nên làm.
Người Phật tử
xuất gia, dù ở hoàn cảnh nào đều phải lấy việc khất pháp, khất thực làm điều
sinh sống.
- Khất pháp
nghĩa là khất cầu chánh pháp của Như Lai. Đối với chánh pháp phải quý trọng,
giữ gìn để cầu chứng được Pháp Thân.
- Khất thực
nghĩa là khất cầu những thực phẩm ăn uống trong mỗi ngày của thí chủ, để tự
dưỡng xác thân và và để thanh tịnh cuộc sống.
Nếu có được sự
sinh hoạt như vậy, chẳng những có thể hoàn thành đức nghiệp cho bản thân mình,
mà còn làm lợi ích cho nhân quần, khiến mọi người vun trồng phước đức. Đây là
lối sinh sống theo chánh mạng do Đức Phật chế định cho hàng Phật tử xuất gia,
không nên trái phạm.
Nhất là hàng Bồ
Tát xuất gia với tinh thần đại từ, đại bi, đáng lý phải hy sinh, không luyến
tiếc sinh mạng quý báu của mình để cứu độ chúng sanh, những người đang cần được
cứu tế, không thể cho phép bạn vì những lợi ích của cá nhân mình, mà dùng những
ác pháp gây sự tổn hại cho người, hoặc dùng tà nghiệp, để được lợi dưỡng hầu
duy trì sinh mạng của cá nhân mình. Điều này không phải là biểu hiện tâm thanh
tịnh, tâm từ bi cần phải có nơi một vị Bồ Tát.
Trên thế gian,
vấn đề hành nghề không chân chính để nuôi sống bản thân so ra thì rất dễ dàng,
vì thế ở xã hội Ấn Độ xưa kia, môn đồ của các tôn giáo khác hay dùng những
phương tiện không chính đáng để mưu sinh, bởi lẽ những công việc ấy thật nhẹ
nhàng, dễ làm, không cần phải nhọc sức nhiều. Đức Phật nhận thấy đây là điều
nhất quyết không thể chấp nhận, vì không phải là việc làm của người Phật tử.
Cho nên ngài chế lập giới điều này.
Nhưng ở vào thời
Mạt Pháp hiện nay, nhìn chung khắp hàng Phật tử xuất gia của Phật giáo, thành
phần không dùng tà nghiệp mưu cầu sự sống, rốt ráo không biết được bao nhiêu
người? Thế nên, khi bước chân đến tự viện đều thấy những việc làm trái với
đường lối tịnh mạng. Nhưng vì việc làm này đã trở thành thói quen, nên những
người hành động không còn nhận ra những việc làm ấy là không đúng. Nhưng chính
những việc làm này đã gây một ấn tượng xấu xa cho các nhân sĩ trong xã hội,
khiến họ nghĩ rằng Phật giáo đồ đang dẫn dắt người đời đi vào con đường mê tín
một cách hết sức lầm lẫn. So lại với tinh thần của Phật giáo chân chính thì quả
là một khoảng cách rất xa!
Đức Phật bảo đại
chúng rằng: “Nếu là một Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, nếu không dùng tâm tốt thực
hành Bồ Tát đạo mà lại dùng ác tâm, chỉ vì để mưu cầu tài lợi phụng sự cho cá
nhân mình mà làm những việc tà mạng nuôi sống. Vì lợi dưỡng không phải là việc
làm thể hiện tinh thần cứu khổ cho chúng sanh. Dùng ác tâm là nói sự không dùng
thiện tâm cầu quả vô thượng Phật đạo. Nếu dùng thiện tâm làm những việc tốt,
cứu tế chúng sanh thoát khỏi cảnh thống khổ, thì phát sanh vô lượng công
đức”.
Tà nghiệp tổng
quát có tám loại như:
1. Buôn bán nam
sắc, nữ sắc: nghĩa là dùng tiền mua thanh niên nam, nữ bán lại cho người khác
để làm việc dâm dục. Điều này đồng nghĩa với việc mở các dâm xá để mưu cầu tài
lợi, nên là một tội ác rất lớn. Chẳng những Phật tử xuất gia không được làm mà
ngay cả Phật tử tại gia cũng không được phép. Vì đây là hành động chia lìa cốt
nhục, nhơ nhuốc gia phong của người, không nghĩ đến liêm sỉ, không đoái hoài
đến nỗi hổ nhục của người.
2. Tự tay làm đồ
ăn: Chính mình nấu nướng thức ăn để dùng. Việc này chỉ cấm hàng xuất gia, còn
với Phật tử tại gia, sự tự nấu nướng để dùng thì hoàn toàn không cấm.
- Đức Phật dạy
tỳ kheo phải dùng đồ ăn từ nơi tịnh nhân trao cho mới được ăn. Sở dĩ Đức Phật
không cho phép sa môn làm việc nấu nướng để sinh sống, vì lúc làm thức ăn thì
mất oai nghi của vị tỳ kheo, lại còn khiến cho tâm tham của tỳ kheo phát sanh,
cho nên không được làm. Nhưng tình hình hiện nay, công nghiệp kỹ nghệ phát
triển và phồn thịnh, việc tự tay làm thức ăn thật là khó tránh.
2. Tự xay, tự
giã: Chính mình tự xay giã ngũ cố để dùng cũng không được. Vì trong ngũ cốc có
rất nhiều sinh mạng của vi sinh trùng, nếu chính tay mình xay giã sẽ làm tổn
hại sinh mạng của chúng sanh, còn thêm bị thế nhân chê bai, dị nghị. Điều này
chỉ ngăn cấm hàng xuất gia, còn hàng tại gia thì không cấm.
Tuy nhiên,
trường hợp Phật tử xuất gia, hành Bồ Tát hạnh, phát tâm cúng dường chúng Tăng,
đích thân dùng sức lực của mình tự xay, tự giã và tự làm thức ăn uống cũng có
thể được cho phép.
4. Chiêm tướng
nam nữ:
Chữ Chiêm còn
đọc là Chiếm, có nghĩa là coi bói, dùng những lời không thật bàn chuyện họa
phước, sống lâu, chết yểu của nam nữ.
Chữ Tướng là
những nét hiện ra bên ngoài.
Chiêm Tướng có
nghĩa là quán sát hình dạng, khí sắc rồi đưa ra những lời nhận xét hư vọng,
tiên đoán những việc cùng, thông, đắc, thất của người. Họ không hiểu rằng bổn
mạng của mỗi người như thế nào, không cần gì phải coi tướng, bói quẻ mà hoàn
toàn căn cứ ở nơi tự mình có thực hành đạo đức làm người hay không. Nếu thực
hành những điều tốt thì tương lai nhất định sẽ tốt, bằng ngược lại, thì lẽ
đương nhiên mọi việc sẽ không bao giờ được như ý muốn. Hoặc coi những việc cưới
gả, tính đoán tuổi tác cho nam nữ, xem cung mạng đôi bên hợp nhau hay không
v.v... Những việc này đều không phải là việc của những người xuất gia nên làm.
Đối với những người tại gia, nếu không phải lấy những việc này làm phương tiện
nuôi sống, chỉ là tình cờ tạm làm thì không phạm giới.
5. Bàn mộng tốt
xấu, sẽ sanh trai hay gái: Mộng mị là việc mọi người đều có. Theo thông thường
nói bậc chí nhân không nằm mộng. Nhưng theo Phật pháp thì chỉ duy có Đức Phật
mới không nằm mộng.
Mộng vốn là hiện
tượng huyễn hóa. Tự nó vốn không mang tính thực tại, nhưng người đời mỗi khi
nằm mộng, thường đi cầu người khác bàn luận về mộng, để biết những điềm hiện
trong giấc mộng tốt hay xấu. Thậm chí, những phụ nữ có mang cũng cầu hỏi xem sẽ
sanh trai hay gái.
Vì người đời có
việc mong cầu như vậy, nên nhiều người cho rằng phải giúp người bàn mộng, suy
xét giùm họ những điều trong mộng; thậm chí còn hư vọng phán đoán việc tốt xấu,
họa phước cho người. Hoặc hư vọng phán đoán người phụ nữ có mang sẽ sanh trai
hay gái.
Hàng Phật tử
xuất gia chuyên tu đạo pháp xuất thế và lo hóa độ chúng sanh, làm sao có thì
giờ rảnh rỗi để đi làm những việc ấy? Còn hàng Phật tử tại gia nếu không phải
làm những việc ấy để lấy tiền nuôi sống, nếu gặp trường hợp tạm thời phải làm
thì không ở trong sự cấm ngăn.
6. Chú thuật,
công xảo:
Chú thuật là
những tà chú, bùa phép cùng các huyễn thuật của ngoại đạo. Phù chú có thể sai
khiến quỷ thần, nhiếp lấy hồn phách của người đem đi, làm cho người cảm thấy có
những điều bất an. Huyễn thuật có thể biến hóa ra các việc ảo huyền để mê hoặc,
dối gạt người, làm cho người sa vào trong vòng huyễn thuật của mình mà không
hay biết.
Công là tinh
diệu, Xảo là khéo léo. Nghĩa là nương vào khả năng khéo léo, chế tạo ra các đồ
vật tốt đẹp, phô bày kỹ thuật tinh xảo của mình, khiến cho mọi người lưu tâm
đặc biệt đến nghề nghiệp của mình. Điều này là việc làm của người thế tục thông
thường, không phải là việc của người Phật tử xuất gia nên làm.
7. Phương pháp
huấn luyện ưng khuyển:
Ưng là loại chim
lớn, còn gọi là Ó. Khuyển là chó. Là những con vật có thể giúp thợ săn bắt
những thú rừng. Do đó, những người thợ săn đặc biệt huấn luyện chúng cách thức
săn bắt thú rừng. Đây là những việc làm hung ác, gây tổn hại sinh mạng chúng
sanh, trái với tâm từ bi trong Phật pháp. Cho nên hàng Bồ Tát xuất gia cũng như
tại gia, nếu vì mục đích hộ vệ thân mạng, giữ gìn nhà cửa mà nuôi chó, không
phải vì làm phương tiện sinh sống, thì có thể cho phép. Ngoài trường hợp đặc
biệt nói trên, tuyệt đối không được dùng các phương pháp huấn luyện chim, chó
phục vụ cho việc săn bắn.
8. Hòa hiệp trăm
thứ thuốc độc, độc rắn, độc sanh kim ngân, độc sâu cổ: Nghĩa là dùng những loại
thuốc độc trong thế gian, hòa hợp thành những loại cao, đơn, hoàn, tán để giết
hại chúng sanh. Việc làm này thật không hợp với đạo từ bi của Phật pháp, cho
nên bất luật xuất gia hay tại gia đều không được bào chế độc dược. Thuốc độc có
đến trăm ngàn loại không thể kể hết, trong kinh chỉ lược nêu ra mấy loại
sau:
- Hòa hợp nọc
rắn: để giết hại sanh mạng của người và của tất cả chúng sanh. Lấy nọc rắn ở
đuôi rắn hay đầu rắn, đặc biệt lấy nọc rắn vào ngày mùng 5 tháng 5. Hoặc lấy
tủy não hay tinh dịch của nó bào chế thành thuốc độc. Dùng những thuốc này để
giết hại người hoặc dùng nó để tránh khỏi độc rắn.
- Bào chế các
loại thuốc độc sanh kim ngân: vì chất này rất độc, dùng hai thứ ấy hòa hợp với
thuốc độc thì có thể giết người hại vật dễ dàng. Nếu uống hay ăn phải thứ độc
sanh kim ngân này thì sang mạng liền bị giết chết.
- Bào chế độc
sâu cổ: Nghĩa là tập hợp tất cả các loại trùng độc lại một nơi, để cho chúng tự
tàn sát lẫn nhau. Con nào còn lại cuối cùng, bắt đem phơi khô, tán thành bột,
rồi lén bỏ vào đồ ăn của người mình muốn giết, hoặc là bỏ vào y phục của họ,
khiến kẻ ấy bị đầu độc mà chết.
Nếu làm những
việc trên để thâu tài lợi, nuôi sống bản thân, đều không phải là lối mưu sinh
chính đáng, nên trong Phật pháp gọi là “tà mạng”. Việc không nên làm mà làm là
trái với tinh thần của Phật tử, nên trong kinh quở rằng: “Không có tâm từ bi,
không có tâm hiếu thuận”.
Tại sao
vậy?
Nên biết: Chúng
ta vốn là một vị Bồ Tát chân chính. Nội tâm từng giờ, từng phút phải có lòng
đoái thương tất cả chúng sanh như con đỏ của mình. Mỗi niệm đều phải suy nghĩ
làm thế nào cho chúng sanh được lợi ích. Hiện tại, nếu chẳng những không làm
được như vậy, mà trái lại, còn vì sự sống của cá nhân mình mà làm việc tổn hại
chúng sanh, thì chẳng khác nào như ăn thịt con đỏ của mình. Vậy thì còn đâu là
tâm Từ Bi của người Phật tử?
Nói cách khác,
Bồ Tát xem tất cả chúng sanh đều như cha mẹ của mình, luôn luôn nghĩ tưởng rằng
phải phụng dưỡng cha mẹ như thế nào cho phải đạo. Hiện tại, chẳng những không
thực hành như vậy, mà trái lại còn vì sự sinh sống cá nhân làm những việc tổn
hại cho song thân, như thế thật là hết sức ngỗ nghịch, đâu còn tội nào nặng
hơn. Đã không có tâm hiếu thuận như vậy, thì đâu còn gì là tư cách của một vị
Bồ Tát?
Tất cả những
việc mưu sinh tà mạng đều không nên làm. Nếu như không phải do sự lầm lỡ vô
tình, mà chính là do sự cố ý hành động, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Vì tài lợi mà
buôn bán, làm các việc ác để mưu sự sống cho cá nhân, trong thì trái với tâm từ
bi, ngoài thì thương phong bại tục, nên bị ghép vào tội khinh cấu. Nếu chúng
sanh vì việc làm này mà bị tán thất thân mạng thì việc làm này bị kết thành căn
bản trọng tội.
Vấn đề bào chế
các thứ thuốc độc kết thành tội khinh cấu, là nói lúc hòa hợp thuốc, nhưng đến
khi giết chết chúng sanh thì kết thành căn bổn trọng tội. Bào chế thuốc độc đã
như thế, thì sự huấn luyện chim ó, chó săn cũng giống như vậy. Điều này chúng
ta đương nhiên phải biết.
Giới này phối
hợp với Tam Tụ Tịnh Giới tương ứng như sau:
- Không tà mạng
nuôi sống thuộc về Nhiếp Luật Nghi Giới.
- Có tâm từ bi,
hiếu thuận thuộc về Nhiếp Thiện Pháp Giới.
- Không có ác
tâm làm hại chúng sanh, thuộc về Nhiếp Thiện Pháp Giới.
Thế nên giới tà
mạng nuôi sống này, mới xem qua là rất đơn giản, nhưng nếu thực hành trọn vẹn
thì bao gồm cả Tam Tụ Tịnh Giới của Bồ Tát ở trong đó.
Tà mạng sinh
sống nhiều kinh luật giải thích khác nhau. Như trong Đại Trí Độ Luận của Tổ
Long Thọ thuyết minh: “Tịnh Mục nữ thỉnh vấn tôn giả Xá Lợi Phất rằng: - Kính
bạch tôn giả! Vấn đề nuôi sống không thanh tịnh như thế nào, xin tôn giả chỉ
dạy cho con được rõ?
Tôn giả dạy
rằng: - Có những người xuất gia, bào chế các thứ thuốc, gieo giống làm ruộng,
trồng các thứ cây ăn trái v.v... thuộc về lối sống không thanh tịnh. Đấy gọi là
Hạ Khẩu Thực.
- Những người
xuất gia ngước xem tinh tú, nhật nguyệt, gió mưa, sấm sét, điện chớp để làm
nghề nuôi sống, thuộc về lối sống không thanh tịnh. Đấy gọi là Ngưỡng Khẩu
Thực.
- Những người
xuất gia dua nịnh với các nhà quyền quý, đi làm thông sứ bốn phương, dùng lời
khéo léo mưu cầu tài lợi thật nhiều, thuộc về lối sống không thanh tịnh. Đấy
gọi là Phương Khẩu Thực.
- Những người
xuất gia học các thứ chú thuật, coi bói các việc kiết hung v.v... Những việc
làm như thế thuộc về lối sống không thanh tịnh. Đấy gọi là Tư Duy Khẩu
Thực.
Này Đại Tỷ! Tôi
đây không bị ở vào bốn thứ sống không thanh tịnh ấy. Tôi chỉ dùng lối sống
thanh tịnh đi khất thực mà thôi”.
Căn cứ vào những
lời của tôn giả Xá Lợi Phất thì có thể biết bốn thứ khẩu thực như thế thuộc về
tà mạng. Thế nên người Phật tử xuất gia phải vâng theo giới luật thanh tịnh
nuôi sống, chớ nên theo lối tà mạng. Nhưng nhìn lại hàng ngũ chúng Tăng hiện
nay, những người không ở vào bốn thứ bất tịnh thực như trên có thể nói là rất
hiếm.
Lại có nơi giải
thích năm thứ tà mạng như sau:
1. Giả hiện
tướng khác lạ: Nghĩa là đối với những người thế tục, cố giả hiện ra những tướng
kỳ lạ để mong cầu lợi dưỡng.
2. Tự nói công
đức: tự đi rao nói công đức của mình làm cho người nghe phát tâm cúng dường để
được lợi dưỡng nuôi sống.
3. Xem tướng tốt
xấu: khoa coi bói để đoán những việc kiết hung của người hầu thu được lợi dưỡng
nuôi sống.
4. Cao thinh
hiện oai: Lúc nói chuyện, cố ý sửa âm thanh, tiếng nói lớn, chậm rãi, ra vẻ có
uy thế, khiến cho người sanh tâm kính sợ hết mức đối với mình. Do đó, họ sẽ
phát tâm lo cúng dường các thứ nhu dụng.
5. Nói những lợi
dưỡng đã thu được để khích động tâm người: Hoặc thường đến nhà người khác rao
nói hôm nay người này cúng dường cho tôi phẩm vật này, ngày mai người kia cúng
dường cho tôi phẩm vật nọ. Người khác nghe bạn nói như thế bèn mang đồ đến cúng
dường, vì họ bị bạn kích động nên phát tâm cúng dường. Những việc như vậy đều
là mưu cầu lợi dưỡng một cách phi pháp, nên gọi là tà mạng, cũng gọi là lối
sống không thanh tịnh.
Về lối sống
thanh tịnh chân chính, trong kinh cũng có nói bốn thứ như sau:
1. Ở chốn thâm
sơn, chỉ dùng hoa quả, rau trái.
2. Hằng ngày
mang bát đi khất thực.
3. Đàn việt tự
phát tâm mang thức ăn đến cúng dường.
4. Thọ dụng thức
ăn thanh tịnh trong chúng Tăng.
Vì lối
sống này tâm địa không bị ô nhiễm, cho nên gọi là “tịnh thực”, còn gọi là lối
sống thanh tịnh.