Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bồ Tát Long Thọ Vì Vua Thiền Đà Ca Nói Kệ Pháp Trọng Yếu

27 Tháng Mười 201520:09(Xem: 12558)
Bồ Tát Long Thọ Vì Vua Thiền Đà Ca Nói Kệ Pháp Trọng Yếu
BỒ-TÁT LONG THỌ VÌ VUA THIỀN-ĐÀ-CA NÓI KỆ PHÁP TRỌNG YẾU
Kinh văn số 1672

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, Luận tập bộ toàn
Đời Tống, Tam Tạng Pháp Sư Cầu-Na-Bạt-Ma dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán
Sa-môn Thích Như Điển phương trượng chùa Viên Giác Đức quốc
Dịch từ chữ Hán sang chữ Việt nhân khai mạc khoá tu học Phật Pháp Âu châu lần thứ 19
Tại Göterborg Thụy Điển, ngày 27.07.2007
Hiệu đính lần thứ nhất ngày 27 tháng 10 năm 2015
 

 

   Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết

   Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm

   Trọn bị vô minh che, ngăn ngại

   Ta nay vì họ hưng lợi ích.

   Ví như khắc hoạ, tạo tượng Phật,

   Người trí thấy được nên cung kính,

   Ta nương Như Lai nói chính Pháp

   Đại vương cũng nên tin nhận sâu.

   Ngài trước tuy nghe lời Thích-Ca

   Nay nếu nghe nhận thêm nhận thức.

   Giống như ao hoa sắc thanh tịnh

   Ánh trăng tỏa chiếu sáng hơn ngày.

   Phật nói sáu niệm phải tu tập

   Nghĩa là: Tam Bảo, Thí, Giới, Thiên.

   Tu hành mười thiện tịnh ba nghiệp,

   Lìa rượu, phóng dậttà mạng,

   Quán thân, mạng, tài chóng nguy ngập

   Nên thí Phước Điền cứu nghèo cùng,

   Thí làm bền chắc không gì sánh

   Là người thân cận tối đệ nhất.

   Chăm tu tịnh giới trừ vết uế,

   Cũng chớ mong muốn, cầu các Hữu.

   Ví như gieo trồng trong đại địa

   Giới sinh các thiện cũng như thế.

   Tu Nhẫn, nhu hoà, bỏ sân khuể

   Phật nói hành này tối thượng nhất.

   Như thế Tinh tiến và Thiền, Trí

   Đủ sáu hành này vượt sống chết.

   Có thể ở nhà hiếu cha mẹ

   Đó tức gọi là thắng phúc điền,

   Hiện đời danh tiếng lớn truyền khắp,

   Vị lai phúc báo chuyển vô lượng.

   Giết, trộm, dâm, dối, đam mê rượu,

   Giường chạm cao rộng và xông hương,

   Hát ca xướng kỹ, ăn quá thời,

   Các ác như thế phải xa lìa.

   Nếu chút thời gian tu giới này

   Thọ vui cõi trời, lên niết-bàn.

   Xan tật, tham dục và xiểm ngụy,

   Cuống hoặc, điên đảogiải đãi

   Các pháp ác, bất thiện như thế

   Đại vương phải quán, chóng vứt bỏ.

   Đoan chính, tôn cao và năm dục                             

   Phải biết nguy ngập và phù phiếm,

   Chớ cậy vào pháp không chắc ấy.

   Kiêu dật, phóng túng sinh các khổ,

   Muốn tăng các thiện, chứng cam lồ

   Phải nên xa lià như vứt độc.

   Có thể tinh cần bỏ kiêu mạn

   Ví như trừ mây hiển trăng thu,

   Giống như Chỉ-Kế và Nan-Đà,

   Cũng như Sai-Ma... các hiền thánh.

   Như Lai nói có ba loại lời:

   Lời nhập ý, chân thật, hư vọng,

   Nhập ý như hoa, Thật như mật,

   Hư vọng ác hèn như phẩn uế,

   Phải nên tu tập hai loại trước,

   Nhanh chóng dứt trừ loại hư vọng.

   Bốn loại pháp từ sáng vào sáng

   Vua  phải phân biệt, suy nghĩ kỹ,

   Hai loại vào sáng thì nên tu,

   Nếu là si tối phải chóng bỏ,

   Quả Am-ba-la hoá bốn loại

   Người khó phân biệt cũng như vậy.

   Phải lấy trí huệ quán sát sâu

   Nếu thật hiền thiện nên gần gũi.

   Tuy thấy người nữ cực đoan nghiêm

   Phải tưởng như mẹ, như người hầu,

   Nếu khởi tâm tham dục ái nhiễm

   Phải nên chính tu quán bất tịnh.

   Tâm này tháo động phải cấm chế

   Như giữ thân mạng hoặc trân bảo,

   Tâm dục nếu khởi phải kinh sợ

   Như sợ đao kiếm, các ác thú.

   Dục làm bất lợi như oán độc

   Đấng Mâu-Ni nói lời như thế.

   Sinh tử luân hồi quá ngục trói

   Nên phải chăm tu cầu giải thoát.

   Sáu Nhập tháo động ruổi các cảnh

   Phải nên thu giữ chớ buông lung.

   Có thể như thế nhiếp các căn

   Hơn cả dũng tướng thắng giặc mạnh.

   Thân này bất tịnh chín lỗ chảy

   Chẳng có cùng tận như sông biển,

   Da mỏng đậy che dường thanh tịnh

   Như anh lạc giả tự trang nghiêm,

   Những người có trí chính phân biệt

   Biết nó dối gạt liền vứt bỏ.

   Ví như người ghẻ cạnh lửa nồng

   Thoạt tuy tạm thích sau thêm khổ,

   Tưởng của tham dục cũng như thế

   Lúc đầu chút lạc sau nhiều hoạn.

   Thấy thật tướng thân đều bất tịnh

   Ngay đó quán không, không có ngã,

   Nếu có thể tu tập quán này

   Trong các lợi ích vô thượng nhất.

   Tuy có dòng tộc và nghe nhiều

   Nếu không giới, trí như cầm thú,

   Tuy chỗ xấu hèn, ít thấy nghe

   Tu được giới, trí gọi thắng sỹ.

   Tám pháp: lợi, suy... khó thể tránh

   Nếu trừ bỏ được thật không sánh.

   Các vị Sa-môn, Bà-la-môn

   Có cha mẹ, vợ con, quyến thuộc

   Chớ vì ý họ, nhận lời họ

   Rộng tạo bất thiện, hành phi pháp,

   Nếu vì như thế khởi các lỗi

   Vị lai khổ lớn chỉ mình nhận.

   Phàm tạo các ác chưa báo ngay,

   Không như đao kiếm liền thương, hại

   Lâm chung tướng tội mới cùng hiện,

   Sau vào địa ngục chịu các khổ.

   Tín, Thí, Giới, văn, Tuệ, Tàm, Quý

   Bảy pháp như thế gọi Thánh tài

   Chân thật, không sánh, Mâu-Ni nói

   Siêu việt các trân bảo thế gian.

   Đại vương nếu tập thắng tài này

   Không lâu cũng chứng quả đạo trường.

   Giỏi cờ, rượu ngọt, đàn sáo hay

   Giải đãi, kiêu dật và bạn ác,

   Phi thời, khinh tháo, nhiều động loạn

   Bảy pháp như đây phải lìa xa.

   Tri túc thứ nhất hơn các tài

   Lời như thế được Thế tôn nói,

   Biết đủ, tuy nghèo được gọi giầu,

   Có của , nhiều dục gọi là nghèo,

   Nếu nhiều tài nghiệp tăng các khổ,

   Như rồng nhiều đầu thêm độc tố.

   Phải quán vị ngon như thuốc độc

   Dùng nước trí huệ vẩy khiến sạch.

   Vì giữ thân này nên phải ăn

   Chớ tham vị sắc, tăng kiêu mạn,

   Nơi các dục nhiễm phải sinh chán.

   Điều hoà thân này khiến an ổn,

   Cần cầu đạo vô thượng niết-bàn,

   Sau rồi nên phải tu trai giới.

   Một đêm phân biệt có năm thời,

   Ở trong hai thời phải ngủ nghỉ,

   Đầu đêm, giữa, cuối quán sinh tử,

   Phải chăm cầu thoát chớ qua không.

   Bốn định vô lượng phải tu tập

   Đó gọi là mở đường Phạm Thiên,

   Nếu chuyên trói niệm bốn tâm thiền

   Mạng hết ắt sinh nơi trời ấy.

   Hữu vi dời đổi đều vô thường

   Khổ, không, bại hoại, chẳng kiên cố,

   Không ngã, không lạc, chẳng thanh tịnh,

   Như thế đều gọi: pháp đối trị.

   Nếu ai quán sâu pháp môn này,

   Vị lai thường ở vị tôn quý.

   Tu hành năm giới, đoạn năm tà,

   Cũng là điều đại vương nên niệm:

   Ví như chút muối thả sông Hằng

   Chẳng thể khiến nước có vị mặn,

   Ác nhỏ ít nếu gặp các thiện,

   Tiêu tan bại hoại cũng như thế.

   Năm tà nếu tăng, cướp công đức

   Vua phải trừ diệt chớ cho tăng,

   Năm căn như: Tín..., các nguồn thiện,

   Thì phải tu tập khiến tăng thêm.

   Tám khổ như: sinh...thường hực cháy

   Thường dùng nước huệ rưới cho diệt.

   Muốn cầu thiên lạc và niết-bàn

   Phải thường tu tập chính tri kiến.

   Tuy có trí bén, vào đạo tà,

   Công đức vi diệu mãi không thừa.

   Bốn loại điên đảo hại các thiện

   Cho nên phải quán chớ cho sinh:

   Sắc chẳng phải ngã, ngã chẳng sắc

   Trong ngã không sắc, sắc không ngã,

   Nơi sắc sinh bốn loại tâm này,

   Các ấm còn lại cũng như thế,

   Hai mươi tâm này gọi điên đảo,

   Có thể trừ được là tối thượng.

   Pháp không tự khởi, vô minh sinh

   Chẳng Tự Tại hay thời, hữu làm,

   Đều từ vô minh, nghiệp ái khởi,

   Nếu không nhân duyên liền dứt hoại.

   Đại vương đã biết các nhân này

   Phải thắp đèn huệ trừ si tối.

   Các kết: thân kiến, giới thủ, nghi

   Ba thứ hay chướng đạo vô lậu,

   Nếu vua hủy hoại khiến diệt tan

   Pháp Thánh giải thoát sẽ hiển hiện.

   Ví như người mù hỏi tướng nước

   Trăm nghìn vạn kiếp chẳng thể biết,

   Dục cầu niết-bàn cũng như thế

   Chỉ tự tinh cần sau mới chứng.

   Dục giả quyến thuộctri thức

   Nhưng gặp được thì cực khó có,

   Cho nên Đại Vương phải tinh tiến

   Rồi sau có thể chứng tịch diệt.

   Thí, Giới, Nghe Nhiều và Thiền Định

   Nhân đây dần gần bốn chân đế.

   Nhân chủ nên phải tu tuệ minh,

  Hành ba pháp này cầu giải thoát

  Có thể tu thừa tối thượng này

  Ắt nhiếp tất cả các thiện khác.

  Đại Vương phải tu pháp Niệm Thân,

  Thế Tôn gọi là đạo thanh tịnh,

  Nếu không niệm này, tăng giác ác

  Cho nên cần phải chăm tu tập.

  Mạng người ngắn ngủi chẳng dừng lâu

  Như bọt trên nước, khởi liền diệt,

  Khoảng thở ra, hít vào, ngủ nghỉ

  Niệm niệm hằng sút thường suy giảm,

  Không lâu liền sẽ thấy tiêu diệt,

  Da thịt thối nát cực đáng chán

  Đờm xanh, trương hoại, máu bầm chảy,

  Trùng dòi ăn hút đến khô kiệt,

  Tóc, lông, móng, răng mỗi phân tán,

  Gió thổi, nắng thiêu lần khô tận.

  Phải biết thân này chẳng vững bền

  Tích tụ bởi vô lượng khổ não,

  Cho nên hiền thánh, người có trí

  Đều quán lỗi ấy mà vứt bỏ.

  Tu-Di, biển rộng với sông dài

  Bảy mặt trời chiếu đều tan hết,

  Kiên cố như vậy còn phá hủy

  Huống lại là thân nguy ngập này,

  Vô thường đã đến không cứu hộ,

  Không thể cậy tình hoặc truy cầu.

  Cho nên Đại Vương phải quán kỹ

  Chóng sinh chán lià cầu thắng pháp.

  Thân người khó được, nghe pháp khó

  Giống như rùa mù gặp lỗ trôi,

  Nếu đã được thân hiếm có này

  Phải nên chăm tâm nghe chính pháp.

  Được thân vi diệu mà tạo ác

  Ví như đồ quý đựng các độc,

  Sinh ở trung quốc, gặp bạn lành

  Chuyên niệm, phát tâm, khởi chính nguyện.

  Lâu trồng công đức đủ các căn

  Nay vua đầy đủ các thiện này,

  Nếu lại gần gũi người tri kiến,

  Phật gọi đây là tịnh Phạm hành,

  Cho nên phải nên vui tùy thuận,

  Chư Phật do đây chứng niết-bàn.

  Đã gặp pháp thanh tịnh vi diệu

  Phải nên chí cầu đạo lìa dục.

  Sinh tử hiểm nạn khổ vô lượng

  Nói đến cùng kiếp cũng chẳng hết,

  Ta nay vì vua lược phân biệt

  Phải nên lắng nghe khéo suy nghĩ.

  Ba cõi biến chuyển không giới hạn,

  Cha mẹ, vợ con nhân lẫn nhau

  Oán thân, yêu ghét chỗ vô thường,

  Như bánh xe lửa há cùng tận?

  Vô thỉ sinh tử thế giới lại

  Sữa mẹ đã uống hơn đại hải,

  Nếu chẳng tinh cần chứng trí Không

 Tương lai lại  uống không cùng tận.

  Lăn khắp năm đường, trải trời, người

  Nếu góp xương cao hơn Tu-Di,

 Nước mắt của ái biệt sầu bi

 Cũng chẳng phải sông biển so bì.

 Nếu tính cha mẹ của một người

 Vượt quá thế gian số cây cỏ.

 Tuy hưởng năm dục vui trên trời

 Rốt trở lại đọa ác thú khổ,

 Chư thiên thọ mạng cực lâu dài

 Thọ lạc khoảng ấy khó tuyên nói,

 Hát xướng ca múa dòng diệu thanh

 Ai âm hoà nhã rất trong xa,

 Kỳ-bà diệu sắc cực đoan nghiêm

 Vây quanh hầu vệ cùng hoan lạc,

 Cỗ bàn trăm vị đều đầy đủ

 Tùy theo ý thích đến tự nhiên,

 Ao báu hương, nước tịnh tràn đầy,

 Khắp nơi giăng phủ hoa vi diệu,

 Các chim sắc lạ tụ bên trên

 Hót hòa nhau phát xa diệu âm,

 Chư thiên du hí, tắm trong ấy

 Vui thích như thế chẳng thể nói.

 Hết phúc lâm chung năm suy hiện

 Bấy giờ ngồi khổ nhớ vui trước.

 Cho nên tuy có vui thiên nữ

 Người trí thấy đó đã sinh chán.

 Tuy ở trân bảo lên lầu quán

 Cũng ắt thối đọa nơi thối bẩn,

 Tuy trong vườn Nan-Đà trên trời

 Cũng lại phải vào rừng đao kiếm,

 Tuy tắm ao Mạn-Đà chư thiên

 Rốt ắt rơi vào ngục sông tro,

 Tuy ở địa vị vua Chuyển Luân

 Rốt là đồng bộc bị truy đuổi,

 Tuy thọ vui lìa dục Phạm Thiên

 Lại rơi vô gián khổ thiêu đốt,

 Tuy ở thiên cung đầy ánh sáng

 Sau vào trong địa ngục hắc ám,

 Gọi là địa ngục Hoạt, Hắc-Thằng,

 Thiêu, cắt, chém, đâm và vô gián ,

 Tám địa ngục này thường thiêu đốt

 Đều là nghiệp báo chúng sinh ác.

 Hoặc chịu khổ lớn như ép dầu,

 Hoặc nghiền thân thể như bụi phấn,

 Hoặc phanh chi tiết cho phân tán,

 Hoặc lại chém cắt và thiêu nấu,

 Hoặc lấy đồng sôi đổ vào miệng

 Hoặc lấy móng sắt xé thân hình,

 Chó sắt tranh nhau lại ăn nuốt,

 Chim sắt tụ lại cùng mổ xé,

 Các loại trùng  độc đều gặm nhắm,

 Hoặc cột đồng cháy xuyên qua thân,

 Lửa lớn hừng hực cùng đỗng nhiên

 Vì nhân tội nghiệp không trốn thoát.

 Vạc dầu sôi sục đến cao vọt

 Tội nhân điên đảo choàng nhảy vào.

 Mạng người nguy ngập cực nhanh chóng 

 Ví như khoảng hơi thở chư thiên,

 Nếu ai với mạng ngắn như thế,

 Nghe các khổ trên không kinh sợ,

 Phải biết tâm ấy rất kiên cố

 Giống như kim cương khó bẻ gãy.

 Nếu thấy tranh vẽ, nghe người nói,

 Hoặc theo kinh sách tự nhớ nghĩ,

 Khi biết như thế đã khó nhẫn

 Huống lại thân mình tự trải qua?

 Địa ngục lớn không ngừng, không cứu  

 Trong đó các khổ không cùng tận.

 Nếu lại có ai trong một ngày

 Bị ba trăm giáo đâm thân thể

 So một niệm khổ ngục A-Tì

 Trăm nghìn vạn phần chẳng được một.

 Chịu khổ lớn này trải một kiếp,

 Duyên tội nghiệp hết lại được miễn.

 Khổ não như thế từ ai sinh?

 Đều là ba nghiệp bất thiện khởi.

 Tuy nay Đại Vương không nạn ấy

 Nếu không tu nhân, rốt đoạ lạc,

 Ở trong súc sinh khổ vô lượng

 Hoặc bị  trói buộc hoặc đòn roi.

 Vì không có Tín, Giới, Đa Văn

 Luôn với ác tâm ăn nuốt nhau,

 Xương, lông, da, thịt đến tàn hại, 

 Hoặc là minh châu, lông, sừng, răng,                                                                                                                    

 Bị người đóng cưỡi không tự tại

 Thường chịu khổ ngói đá dao gậy.

 Trong đường ngạ quỷ khổ cũng vậy

 Các sự mong cầu chẳng tùy ý,

 Đói khát bức bách, khốn lạnh nóng,

  Các khổ thiếu, mệt nhiều vô lượng,

  Bụng lớn như núi, họng như kim

  Phẩn uế máu tanh, không thể nói,

  Loã hình phủ tóc cực xấu ác

  Như cây đa-la bị đốt, chặt

  Đêm miệng ắt bị lửa lớn đốt,

  Các trùng cùng đến tranh ăn hút,

  Phân tiểu cấu uế các bất tịnh

  Trăm nghìn vạn kiếp chẳng thể được,

  Nếu lại tìm cầu được ít phần

  Lại cướp đoạt nhau cùng tan mất.

  Trăng mát đêm thu như nạn lửa,

  Ôn hoà ngày xuân hoá khổ lạnh,

  Nếu đến vườn rừng, quả hết sạch,

  Nếu đến dòng trong biến cạn khô.

  Vì duyên tội nghiệp thọ lâu dài,

  Trải qua một vạn năm nghìn năm,

  Chịu các khổ độc không chỗ khuyết

   Đều là quả báo của ngạ quỷ.

  Chính Giác nói nhân khổ não này

  Gọi là nghiệp xan tham, tật đố.

  Nếu phúc trời hết còn sót thiện

  Nhân đó được làm vua cõi người,

  Sau nếu giải đãi, phúc đều hết

  Ắt đoạ ba ác chẳng chút nghi.

  Hoặc sinh Tu-la khởi cống cao

  Khuể, tật, tham, hại tăng các não.

  Chư thiên tuy có báo thiện hành

  Vì xan tật kia mất lợi lạc.

  Cho nên phải biết kết tật đố

  Là pháp nhiễm, ác phải vứt bỏ.

  Đại Vương, ngài nay đã biết đủ

  Sinh tử lỗi ác nhiều các khổ,

  Phải nên chăm tu thiện xuất thế

  Như khát muốn uống, cứu cháy đầu,

  Nếu thêm tinh tiến dứt các Hữu

  Trong các thiện là vô thượng nhất.

  Phải chăm trì giới, tu thiền, trí

  Điều phục tâm kia, cầu niết-bàn.

  Niết-bàn vi diệu tuyệt các tướng

  Không khổ sinh, lão, bệnh, não sầu,

  Cũng không sông núi với nhật nguyệt

  Cho nên phải nên chóng chứng biết.

  Nếu muốn chứng được trí Vô Sư

  Phải nên chuyên tu Thất Giác pháp,

  Nếu ai ngồi thuyền Giác phần này

  Dễ vượt thoát biển sinh tử lớn.

  Mười bốn pháp chẳng được Phật nói

Chỉ sinh tâm tin, chớ nghi hoặc,

Chỉ phải chính niệm chăm tinh tiến

Quyết định tu tập các pháp thiện.

Vô minh duyên hành, thức, danh sắc,

Sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,

Hữu ắt duyên sinh, sinh duyên tử

Nếu hết sinh tử, nhân duyên diệt,

Như thế chính quán mười hai duyên

Người này ắt thấy Thánh Sư Tử.

Nếu muốn lần lượt thấy Tứ Đế

Phải chăm tu tập Bát Chính Đạo.

Tuy ở chỗ tôn vinh, năm dục

Cũng được Thánh Đạo dứt các kết.

Quả này chẳng thể cầu người khác

Ắt phải tự tâm mới chứng được.

Ta nói các khổ và niết-bàn

Vì muốn lợi ích cho Đại Vương,

Không nên khởi sinh tâm kinh sợ,

Chỉ chăm tụng tập, hành các thiện.

Tâm là căn bản của các pháp

Nếu trước điều phục các việc vui.

Ta nói pháp yếu, lược phân biệt

Vua chẳng nên sinh tâm nhàm đủ,

Nếu bậc trí lớn nói rộng thêm

Cũng phải lắng tâm chăm nghe nhận.

Vua nay gọi là Pháp Khí Lớn

Nếu rộng nghe pháp ắt nhiều ích.

Nếu thấy ai tu ba nghiệp thiện

Phải sinh tâm tùy hỉ, giúp sâu,

Tự mình hành thiệntùy hỉ

Công đức như vậy trọn hồi hướng.

Vua phải ngưỡng học các hiền thánh

Như đức Quán Âm ...độ chúng sinh,

Vị lai ắt sẽ thành chính giác

Cõi không sinh, lão, ba độc hại.

Đại Vương nếu tu trên các thiện

Ắt danh xưng đẹp rộng lan truyền,

Sau đó dùng đây giáo hoá người

Khiến khắp tất cả thành chính giác.

Sông xiết phiền não trôi chúng sinh

Vì sâu kinh sợ khổ hực cháy,

Muốn diệt các trần lao như thế

Phải tu chân thật giải thoát đế.

Lià các pháp thế gian giả danh

Ắt được chỗ bất động thanh tịnh.

Nếu có người vợ tâm độc hại

Người vợ như thế nên lìa xa,

Nếu trinh lương, hoà ái, kính chồng

Khiêm hạ, chăm chỉ như nô tì  

Hằng nghĩ đến thân hữu, di mẫu  

Nên tôn kính như thần trong nhà.

Pháp  được ta nói là như vậy

Vua nên ngày đêm chăm tu hành.


BỒ-TÁT LONG THỌ VÌ VUA THIỀN-ĐÀ-CA NÓI KỆ PHÁP TRỌNG YẾU
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14780)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11850)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12780)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10365)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12079)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15310)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11109)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10564)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12491)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16443)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14336)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11811)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14826)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12047)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16875)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11600)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12750)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11359)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12076)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52196)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15488)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13984)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11459)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13197)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12798)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13239)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17938)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12473)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12669)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54230)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14448)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9946)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13832)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58024)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14525)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20165)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13816)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15421)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17514)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13333)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11945)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13505)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14684)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12507)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12164)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12078)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13311)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 13677)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13345)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25624)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12192)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14574)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11881)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42097)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28366)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38832)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14734)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12719)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16257)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 22316)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant