Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 13: Phó Chúc Chánh Pháp (tiếp Theo)

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5116)
Phẩm 13: Phó Chúc Chánh Pháp (tiếp Theo)
KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn,
tại Trung-quốc, vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2016.
 

 

 

Phẩm 13

PHÓ CHÚC CHÁNH PHÁP (tiếp theo)

 

 

“Lại nữa, này A Nan! Nếu có vị tì-kheo thọ trì các pháp môn của Như Lai rồi, có các vị thiện nam tín nữ đến muốn nghe pháp, nhưng vị tì-kheo ấy không vì họ mà diễn nói, thì vị tì-kheo ấy đã có lỗi lớn đối với Như Lai; vì sao vậy? Các vị thiện nam tín nữ kia đáng lẽ sẽ trở thành pháp khí của Phật pháp, vì họ đã phát tâm vui thích muốn nghe pháp; nhưng vì vị tì-kheo kia không diễn nói, cho nên họ không được nghe. Vì các thiện nam tín nữ không được nghe pháp cho nên không những vị tì-kheo kia bị thối thất căn lành, mà cả các thiện nam tín nữ cũng bị thối thất căn lành. Sở dĩ như thế là vì sao? Vì vị tì-kheo kia không biết điều gì nên nói, và điều gì không nên nói! Này A Nan! Để làm rõ thêm ý nghĩa này, Như Lai sẽ nói thí dụ sau đây:

“Ví như có một người lái buôn, mang rất nhiều hàng hóa quí giá đến một vùng hoang giã đầy nguy hiểm, bày tất cả số hàng hóa quí giá ấy ra đất, rồi lớn tiếng bảo bọn giặc cướp rằng: [Ở đây tôi có nhiều vật quí báu hiếm có, các ông hãy cho tôi biết giá, tôi sẽ bán cho các ông.] Này A Nan! Bấy giờ, bọn giặc cướp kéo ào tới, dùng dao gậy đánh đập người lái buôn, cướp hết hàng hóa quí báu mang đi. Này A Nan! Ý thầy thế nào? Người lái buôn kia có nên bày các đồ vật quí báu ở giữa chốn hoang giã, rồi kêu bọn giặc cướp đến mua không?”

Tôn giả A Nan bạch Phật:

“Dạ thưa không nên, bạch đức Thế Tôn! Người lái buôn kia không nên đem những đồ vật quí báu bày ra nơi vùng hoang giã đầy hiểm nguy, huống hồ lại còn kêu bọn giặc cướp đến mua! Bạch đức Thế Tôn! Người lái buôn kia nên đựng các đồ vật quí báu trong bao, cột giây chắc chắn, mình mặc áo giáp, tay cầm khí giới để tự phòng vệ, đi qua khỏi nơi nguy hiểm một cách an ổn; đó mới là việc nên làm.”

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn lại bảo tôn giả A Nan:

“Lại có một người lái buôn, từ phương xa, mang nhiều hàng hóa quí báu, đến nơi có dân cư đông đúc như kinh đô hay thành ấp xóm làng. Khi đã đến nơi rồi, người lái buôn kia liền mở bao, lấy hết hàng hóa quí báu bày ra đất. Lúc ấy có những người tốt tới hỏi mua các đồ vật quí báu, nhưng người lái buôn kia lại cầm dao gậy đánh đuổi họ. Này A Nan! Ý thầy thế nào? Người lái buôn hành động như thế có được gọi là khôn khéo không?”

Tôn giả A Nan bạch Phật:

“Dạ thưa không, bạch đức Thế Tôn! Người lái buôn kia nên nói với những người tới mua hàng rằng: [Những hàng hóa này của tôi thật quí báu hiếm có, xin quí vị cho giá, tôi sẽ bán cho.] Bạch đức Thế Tôn! Người lái buôn kia nên nói như thế, chứ không nên bày hàng hóa ra đất, rồi dùng dao gậy đánh đuổi người mua.”

Đức Phật dạy:

“Có những vị tì-kheo thọ trì các giáo pháp đang lưu thông như Khế-kinh, Trùng-tụng, Cô-khởi, Thí-dụ, Nhân-duyên, Tự-thuyết, Bản-sinh, Bản-sự, Vị-tằng-hữu, Phương-quảng, Luận-nghị, và Kí-biệt, nhưng đối với những người có thể trở thành pháp khí của Phật pháp thì không nói cho họ nghe. Vì họ không được nghe pháp nên các tâm lành như lòng tin, lòng vui thích nghe pháp, vân vân, không phát sinh. Tâm lành không phát sinh thì họ không trồng được căn lành, không tu được các hạnh thù thắng để chứng được đạo quả niết-bàn. Ngược lại, đối với những người không muốn trở thành pháp khí của Phật pháp, thì những vị tì-kheo kia lại nói pháp cho họ nghe. Những người này tuy được nghe pháp nhưng đã không phát sinh tâm lành, lại còn khởi tâm hủy báng, gây các tội ác, đọa lạc vào ba đường dữ, không được giải thoát. Này A Nan! Cũng như người lái buôn ngu si kia, chỗ nên mở bao vật báu ra thì không mở, chỗ không nên mở thì lại mở; chỗ nên rao bán thì không rao bán, chỗ không nên rao bán thì lại rao bán. Này A Nan! Nếu các thiện nam tín nữthiện tâm thanh tịnh, muốn nghe pháp, đó là vì họ muốn trở thành pháp khí của Phật pháp nên mới đến mong được nghe pháp; đây là trường hợp rất đáng nên nói pháp mà lại không nói, ngược lại, trong trường hợp không đáng nói pháp thì lại nói một cách mạnh dạn. Vì vậy cho nên, này A Nan! Nếu có những người muốn trở thành pháp khí của Phật pháp, phát khởi lòng tin sâu xa, vui thích mong cầu đạo quả niết-bàn như thế, thì hãy vì họ mà nói pháp; còn những người không muốn trở thành pháp khí, không có lòng tin, không muốn thấy lỗi mình, thích tìm vạch lỗi người, phá giới, làm các việc ác, không muốn thuận theo chánh pháp mà lúc nào cũng làm điều trái ngược với chánh pháp, thì đối với những người này, không nên nói pháp. Vì sao vậy? Đó là vì không muốn cho những mgười ngu si kia, nghe pháp xong thì tạo ra tội lỗi lớn. Vì vậy cho nên, này A Nan! Hãy cứ như thế mà làm: Nếu có thiện nam tín nữ muốn được thành pháp khí của Phật pháp mà vui  thích nghe pháp, thì hãy siêng năng vì họ mà nói pháp. Những người nghe pháp cũng phải nhiếp tâm chuyên chú lắng nghe. Này A Nan! Được như vậy thì cả hai bên đều được công đức rộng lớn vô lượng!

“Này A Nan! Theo ý thầy thì khu vực đất đai và khu vực chúng sinh, bên nào nhiều hơn?”

Tôn giả A Nan bạch Phật:

“Theo con hiểu ý nghĩa lời dạy của đức Thế Tôn, thì khu vực chúng sinh nhiều hơn khu vực đất đai.”

Đức Phật dạy:

“Đúng vậy, đúng vậy, này A Nan! Như thầy vừa nói, chúng sinh thì nhiều, còn đất đai, kể cả nước, lửa, vân vân, thì ít hơn. Này A Nan! Chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, có loài có thể biết được, có loài không thể biết được; có loài có thể thấy nghe được, có loài không thể thấy nghe được. Tất cả chúng sinh nhiều như thế, giả sử trong một sát-na đều được làm người đàn ông, rồi một sát-na tiếp theo tất cả đều chứng quả Bích-chi Phật. Lại nữa, này A Nan! Tất cả đất đai trong vô lượng vô số thế giới, đất đai ấy rộng lớn vô biên, không thể biết được ngằn mé; đem số đất đai rộng lớn này nghiền nát ra thành những hạt bụi nhỏ li ti. Giả sử, tất cả những hạt bụi nhỏ ấy đều được làm người đàn ông, rồi trong một sát-na, tất cả đều chứng quả Bích-chi Phật. Lại nữa, này A Nan! Trong vô lượng vô số thế giới, có bao nhiêu các núi Tu-di, núi Thiết-vi, núi đại Thiết-vi, núi Tuyết, núi Hương, núi đen, vân vân, cho đến trong ba ngàn đại thiên thế giới, có bao nhiêu cây cỏ, rừng rậm, đều đem nghiền nát ra thành những hạt bụi nhỏ li ti, cùng với các loài có thể biết được, loài không thể biết được, loài có thể thấy nghe được, loài không thể thấy nghe được, tất cả đều được làm người đàn ông, rồi trong một sát-na, tất cả đều chứng quả Bích-chi Phật.

“Lại nữa, này A Nan! Giả sử, tất cả các vị Bích-chi Phật kia, trụ thế từ quá khứ cho đến vị lai, thọ mạng lâu dài không thể đếm biết được; và trong số vô lượng các người đàn ông trên kia, chỉ có duy nhất một người không chứng quả Bích-chi Phật, mà trở thành một vị đại trưởng giả. Ông trưởng giả này cũng sống từ quá khứ cho đến vị lai, thọ mạng lâu dài không thể đếm biết được. Và trong suốt kiếp  sống lâu dài ấy, ông cúng dường cho vô lượng đức Phật Bích-chi kia, nào các thức ăn uống, y phục, nào giường ghế, thuốc thang, tất cả những thứ cần thiết cho đời sống. Sau khi một vị Phật Bích-chi nhập niết-bàn, ông xây tháp bảy báu, dùng các loại phướn lọng quí báu để trang hoàng, đem các loại hương hoa, âm thanh, kĩ nhạc trân quí nhất để cúng dường một cách cung kính, tôn trọng. Này A Nan! Ý thầy thế nào? Ông đại trưởng giả kia cúng dường như vậy, được phước báo có nhiều chăng?”

Tôn giả A Nan bạch Phật:

“Theo con hiểu ý nghĩa lời dạy của đức Thế Tôn, nếu cung kính tôn trọng cúng dường một vị Phật Bích-chi, sẽ được phước đức vô lượng, không thể nghĩ bàn, huống chi là trong suốt đời sống lâu dài, cung kính tôn trọng cúng dường vô lượng đức Phật Bích-chi như thế!”

Bấy giờ đức Phật lại bảo tôn giả A Nan:

“Hôm nay Như Lai nói sự thật này cho thầy biết: Các vị Bích-chi Phật kia có đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoátgiải thoát tri kiến, xứng đáng thọ nhận mọi thứ cúng dường của ông đại trưởng giả. Bây giờ có một đức Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri ra đời, không thọ nhận các thức ăn uống, y phục, giường ghế, thuốc thang của ông trưởng giả, cũng không nói pháp; nhưng ông trưởng giả chỉ cần được trông thấy đức Phật này thị hiện ra đời với oai nghi bình thường thôi, thì phước đức mà ông có được sẽ nhiều gấp trăm ngàn ức na-do-tha lần so với phước đức ông đã cúng dường vô lượng đức Phật Bích-chi kia. Vì sao vậy? Vì đức Phật Thế Tôn có đầy đủ vô lượng vô số công đức không thể nghĩ bàn. Này A Nan! Đó là chỉ nói đến oai nghi của Phật thôi, mà phước đức còn không thể nói cùng tận như thế, huống chi là nói đến vô lượng các công đức lành khác của Phật!

“Này A Nan! Nếu cúng dường Phật Bích-chi thì được phước đức vô lượng vố số, nếu cúng dường Phật Thế Tôn thì được phước đức cũng vô lượng vô số, hai sự việc đó có gì khác biệt nhau? Này A Nan! Hai sự cúng dường này không phải là không có khác biệt. Này A Nan! Ví như có người đi sang xứ khác để mưu cầu lợi lộc, khi lợi lộc đã có được thỏa mãn rồi thì liền trở về nhà. Này A Nan! Phước đức cúng dường đức Phật Bích-chi, so với cúng dường Phật Thế Tôn, cũng giống như vậy. Này A Nan! Nếu có người cúng dường chư Phật thì phước đức có được không thể lấy gì để thí dụ. Vì sao vậy? Này A Nan! Phước đức của người cúng dường Phật nhiều vô lượng vô số, không có ngằn mé, không có gì sánh bằng, không thể nghĩ bàn. Này A Nan! Phước đức của người cúng dường chư Phật như thế nào? Như Lai sẽ nói thí dụ sau đây. Người có trí nghe thí dụ này sẽ hiểu rõ nghĩa lí.

“Ví như có người họa sĩ, tuy vẽ bức tranh rất đẹp, nhưng vẫn có vài chỗ còn vụng về; lại có người họa sĩ khác, vẽ bức tranh thật hoàn mĩ, hơn hẳn người kia. Như thế đó, này A Nan! Phước đức của người cúng dường Phật Bích-chi có được, so sánh với phước đức của người cúng dường Phật, cũng giống như vậy. Vì sao thế? Này A Nan! Đức Phật Bích-chi, do có trí tuệ mà vị ấy được gọi là Phật Bích-chi; mà trí tuệ ấy lại phát sinh từ trí tuệ của Phật. Trí nhất thiết chủng của chư Phật thù thắng hơn trí tuệ của Phật Bích-chi rất nhiều. Vì vậy cho nên, này A Nan! Nếu trọn đời đem y phục, các thức ăn uống, giường ghế, thuốc thang, chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường chư Phật, thì phước đức có nhiều không?”

Tôn giả A Nan bạch Phật:

“Bạch đức Thế Tôn! Nếu trọn đời chí thành cúng dường chư Phật như thế, thì phước đức nhiều vô lượng. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người chỉ phát sinh một niệm kính tín đối với chư Phật, phước đức của người ấy còn nhiều vô lượng, không thể nghĩ bàn; huống chi là trọn đời chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường chư Phật!”

Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

“Giả sử trọn đời đem mọi thứ phẩm vật chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường một đức Phật. Giả sử cúng dường hai, ba, bốn, năm, cho đến mười đức Phật, hoặc hai mươi, ba mươi, cho đến một trăm đức Phật, một ngàn, một trăm ngàn, một trăm ngàn ức đức Phật, cho đến chư Phật nhiều như số tre trúc, lau sậy trong rừng đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Chư Phật nhiều như thế đều trụ thế lâu dài đến hằng sa kiếp. Bấy giờ có ông đại trưởng giả, cũng sống lâu đến hằng sa kiếp như các đức Phật kia, trọn đời đem các phẩm vật như y phục, các thức ăn uống, giường ghế, thuốc thang, chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường các đức Phật kia; sau khi có một đức Phật diệt độ thì xây tháp bảy báu, trang hoàng bằng các loại phướn lọng quí báu, dùng các loại hương thơm, hoa sen đủ màu, các thứ âm nhạc, chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường; này A Nan! Ý thầy thế nào? Phước đức của ông đại trưởng giả kia có nhiều không?”

Tôn giả A Nan bạch Phật:

“Dạ thưa rất nhiều, bạch đức Thế Tôn! Ông trưởng giả kia đem các thức ăn uống trân quí cùng dường lên một đức Phật, phước đức có được còn nhiều vô lượng, không thể đếm số, huống gì là dùng các phẩm vật cúng dường lên chư Phật trụ thế dài lâu đến hằng sa kiếp! Rồi sau khi một đức Phật diệt độ, lại xây tháp bảy báu, dùng mọi thứ phẩm vật trân quí để cúng dường, thì phước đức có được không thể lấy gì để ví dụ!”

Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

“Bây giờ Như Lai nói cho thầy nghe sự thật này: Nếu ông đại trưởng giả kia, chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường các đức Phật kia trong suốt thời gian trụ thế, sau khi chư Phật diệt độ, lại xây tháp bảy báu, dùng mọi thứ phẩm vật thắng diệu để cúng dường, ông trưởng giả sẽ có được phước đức rất nhiều. Này A Nan! Nếu có người thiện nam hoặc tín nữ, được nghe chư Phật diễn nói đạo bồ-đề, hiểu rõ và có đầy đủ lòng tin sâu xa rằng: Giáo Pháp thật là khéo nói, Tăng là người phát tâm tu tập hạnh lành; tin hiểu tất cả các hành là vô thường, tất cả thế gian là khổ, tất cả các pháp là không, là vô ngã, niết-bàn là tịch diệt an vui. Này A Nan! Người tin hiểu như thế, phước đức có được còn nhiều hơn phước đức cúng dường của ông trưởng giả vừa nói trên. Này A Nan! Nếu có người, chẳng những tin hiểu giáo pháp như thế, mà còn vì người khác diễn nói, thì phước đức của người này thật rộng lớn vô lượng, vô số, vô hạn, không thể nghĩ bàn, không gì sánh bằng. Vì sao vậy? Này A Nan! Kho tàng Pháp Bảo vô thượng ấy, đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn sau, đều là pháp lành. Cho nên, công đức có được của người tu hạnh cúng dường, nếu đem so sánh với công đức của người xiển dương chánh pháp, chỉ nhỏ nhoi giống như hạt cải! Thầy nên biết như thế. Vì sao vậy? Này A Nan! Cúng dườngpháp hữu lậuthế gian, đó là pháp sinh tử. Này A Nan! Kho tàng Pháp BảoNhư Lai đã tích tập trong vô số kiếp, do đoạn trừ sinh tử, xa lìa các loài tạp thực trong vòng lưu chuyển mà có. Cho nên, Này A Nan! Nếu có chúng sinh nghe được giáo pháp ấy thì ngay nơi thực tại sinh già bệnh chết, ưu bi khổ não này mà được giải thoát. Này A Nan! Xét theo ý nghĩa đó mà Như Lai nói rằng: [Có hai loại người có được phước đức lớn: một là người có tâm ân cần nói pháp, hai là người chí thành chuyên tâm nghe pháp.]”

Đức Phật dạy đến đây, tôn giả A Nan bạch:

“Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người thiện nam hoặc tín nữ, có đầy đủ lòng tin sâu xa, chân thật tu hành, phân biệt rành rẽ các pháp môn, hiểu rõ Giáo Pháp thật là khéo nói, Tăng là người phát tâm tu tập hạnh lành; tin hiểu tất cả các hành là vô thường, tất cả thế gian là khổ, tất cả các pháp là không, là vô ngã, niết-bàn là tịch diệt an vui. Người khéo suy nghĩ, có chánh niệm thâm sâu như thế, được bao nhiêu phước đức?”

Đức Phật dạy:

“Này A Nan! Nếu có người thiện nam hoặc tín nữ chỉ biết một điều rằng, Giáo Pháp thật là khéo nói, Tăng là người phát tâm tu tập hạnh lành, người ấy biết như thế rồi suy nghĩ chín chắn thâm sâu, và nhiếp tâm chuyên chú nghe pháp; được nghe pháp rồi, dù chỉ trong thời gian một cái khảy móng tay, người ấy lại suy nghĩ chín chắn thâm sâu rằng, Giáo Pháp thật là khéo nói, Tăng là người phát tâm tu tập hạnh lành, người ấy sẽ có được phước đức vô lượng vô biên; huống chi là người thiện nam hoặc tín nữ ấy suy nghĩ chín chắn thâm sâu, nhiếp tâm chuyên chú nghe pháp, nghe pháp rồi lại chân thật tu hành, hiểu rõ tất cả các hành là vô thường, tất cả thế gian là khổ, tất cả các pháp là không, là vô ngã, niết-bàn là tịch diệt an vui!

“Này A Nan! Giả sử chỉ trong khoảng một sát-na, tất cả chúng sinh ở trong vô lượng vô biên thế giới, đều được làm thân người; rồi cũng chỉ trong khoảng một sát-na, tất cả số người đó đều chứng thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Giả sử thọ mạng của các đức Phật kia, kéo dài từ lúc nào đó trong quá khứ không thể biết được, cho đến lúc nào đó trong vị lai cũng không thể biết được. Này A Nan! Giả sử trong số người kia, chỉ có một người không chứng thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, mà trở thành một vị đại trưởng giả, thọ mạng cũng dài lâu như thọ mạng của các đức Phật kia. Ông trưởng giả này, suốt đời cung kính cúng dường tất cả các đức Phật kia. Ông dùng các phẩm vật như nhạc cụ, y phục, các thức ăn uống, giường ghế, thuốc thang để cúng dường. Sau khi các đức Phật kia diệt độ, ông lại xây tháp bảy báu, dùng các loại phướn lọng quí báu để trang hoàng, đem các loại hương hoa trân quí nhất hiện có trong đời, chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường. Này A Nan! Ý thầy thế nào? Vị trưởng giả kia cúng dường như thế, được phước đức có nhiều không?”

Tôn giả A Nan bạch Phật:

“Dạ thưa rất nhiều, bạch đức Thế Tôn! Nếu vị trưởng giả kia chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường chỉ một đức Phật, phước đức có được còn nhiều vô hạn lượng, không thể tính đếm, không thể so sánh, không thể nghĩ bàn; huống chi là suốt đời chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường tất cả các đức Phật như thế, thì phước đức có được của vị trưởng giả kia, không thể nào suy nghĩ, lường tính được!”

Đức Phật dạy:

“Đúng vậy! Đúng vậy! Này A Nan! Như thầy vừa nói, phước đức mà ông trưởng giả kia có được, không thể nào suy nghĩ, lường tính được! Nhưng, này A Nan! Bây giờ Như Lai nói cho thầy biết sự thật này: Ông trưởng giả kia suốt đời chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường tất cả chư Phật, được nhiều phước đức, đã đành; nếu lại có người suy nghĩ chín chắn thâm sâu, và nhiếp tâm chuyên chú nghe pháp; được nghe pháp rồi, dù chỉ trong thời gian một cái khảy móng tay, tin hiểu rằng: ‘Giáo Pháp thật là khéo nói, Tăng là người phát tâm tu tập hạnh lành, tất cả các hành là vô thường, tất cả thế gian là khổ, tất cả các pháp là không, là vô ngã, niết-bàn là tịch diệt an vui.’, thì phước đức mà người này có được, không thể dùng loại thí dụ nào để có thể biết được!

“Này A Nan! Như Như Lai đã nói ở trước, có hai hạng người được phước đức rất lớn: một là hạng người chí tâm nói pháp; hai là hạng người chú tâm chuyên cần nghe pháp.”

Lúc ấy đức Phật bèn nói kệ rằng:

“Vì hai loại nghĩa lí

Nên nghe lời Phật dạy

Tất cả lậu diệt hết

Là bậc Thánh giác ngộ

Nếu có người nói pháp

Và nghe chánh pháp Phật

Cả hai nhiều phước đức

Dựng nên các cờ tiên”

Bấy giờ đức Phật lại bảo tôn giả A Nan:

“Lại có hai hạng người đối nghịch với ma Ba-tuần: một là hạng người chí tâm nói pháp; hai là hạng người chú tâm chuyên cần nghe pháp. Vì sao vậy? Này A Nan! Hạng người có phạm hạnh đầy đủ như thế gọi là bậc thiện tri thức, và những người bạn lành thì tâm lành tuôn chảy. Vì sao vậy? Này A Nan! Nếu có người được gặp bậc thiện tri thức, gặp rồi thì từ nơi pháp sinh mà được giải thoát, cho đến từ nơi các pháp già, chết, lo buồn, khổ nãođược giải thoát. Này A Nan! Việc này ngày trước Như Lai đã bảo các vị Thanh-văn: Có hai nhân duyên có thể làm phát sinh chánh kiến: một là được nghe pháp từ người khác; hai là chính mình suy nghĩ chân chánh. Nên biết rằng, nghe pháp từ người khác tức là từ Phật; và biết suy nghĩ chân chánh cũng tức là từ Phật mà biết. Vì sao vậy? Này A Nan! Khi Phật chưa ra đời thì kẻ phàm phu tự mình không biết suy nghĩ chân chánh; khi Phật ra đời mới dạy cho họ biết việc ấy. Như Lai xét theo nghĩa lí mà nói như vậy, tức là, tự mình biết suy nghĩ chân chánh, cái biết đó là từ Phật sinh ra.”

Bấy giờ đức Phật bèn nói kệ rằng:

“Lành thay bậc trượng phu

Chánh kiến tăng trí tuệ

Nếu người dứt nghi hoặc

Phàm phu được sáng suốt

Thấy bậc Thánh lòng vui

Được ở chung càng vui

Nếu là kẻ phàm ngu

Không được vui như thế.

“Vì vậy cho nên, này A Nan! Như Laiý nghĩa ấy mà nói rằng, người đầy đủ phạm hạnh gọi là bậc thiện tri thức, và những người bạn lành thì tâm lành luôn luôn nối tiếp nhau tuôn chảy. Vì sao vậy? Này A Nan! Nếu có người được gặp bậc thiện tri thức thì tâm lành liền phát sinh, tâm lành đã phát sinh thì liền có niềm tin, niềm tin đã có thì làm việc gì cũng đều là việc lành, tất cả việc làm đều lành tức là pháp lành, đã được pháp lành tức được an trú trong pháp lành, đã an trú trong pháp lành thì đối với chư Phật Thế Tôn tâm luôn chí thành kính trọng, đối với Pháp và Tăng cũng vậy; sẽ tiếp nhận được giới mà các bậc Thánh quí kính, đó là giới tự tại, giới được người trí tán thán, giới đưa đến niết-bàn. Này A Nan! Như mây làm mưa, trút xuống đầy hố nhỏ, hố nhỏ đầy rồi thì tràn qua làm đầy hố lớn, hố lớn đầy rồi thì tràn qua làm đầy sông nhỏ, sông nhỏ đầy rồi thì tràn qua làm đầy sông lớn, sông lớn đầy rồi thì tràn ra làm đầy biển cả. Như thế đó, này A Nan! Nếu có người thiện nam hoặc tín nữ, được nghe lời Phật dạy thì liền có căn lành, có được căn lành rồi thì được gần bậc thiện tri thức, được gần bậc thiện tri thức rồi thì được gặp nhiều bạn lành, được gặp nhiều bạn lành tức là được ở trong dòng chảy lành, được ở trong dòng chảy lành tức là có được pháp lành tối thắng, pháp lành tối thắng đó chính là tâm lành, có tâm lành rồi liền đúng như phápphát tâm tu hành, chuyển dần đến chỗ rốt ráo thanh tịnh, rốt ráo phạm hạnh, và đó là rốt ráo cùng tột.

“Này A Nan! Thầy xem đấy, tất cả ngoại vật đều cùng lúc sinh trưởng, cho đến lúc hoa quả kết thành, không hề sai trái; huống chi là các hạnh lành mà quí thầy đã tu tập, lại có thể bị mất mát ư? Nếu bị mất mát thì không có lẽ đó! Vì vậy cho nên, này A Nan! Quí thầy hãy tu tập các hạnh lành! Không có người nào tu tập hạnh lành mà không được quả lành, hoặc quả lành bị mất mát. Này A Nan! Như Lai cũng đã từng tu tập các hạnh lành, và tất cả đều không bị mất mát. Này A Nan! Khi Như Lai còn trong thời kì tu tập hạnh Bồ-tát, tất cả các công đức lành do tu tập mà có được, đều kết thành phước báo, không hề mất mát. Này A Nan! Thầy xem đó, trên những con đường Như Lai đi qua, những chỗ gò đống, hố trũng, cao thấp, đều trở nên bằng phẳng; những nơi dơ bẩn hôi hám đều trở nên sạch sẽ thơm tho; cây cỏ, gai gốc, lùm bụi, loại nào xấu dơ thì ẩn mất, loại nào tốt đẹp thì cúi đầu; các vị thần cây hiện thân nghiêng mình lễ bái; ở những đường lớn đường nhỏ nơi các thành ấp, mọi người thấy Như Lai đi qua đều theo Như Lai cùng đi; Như Lai đi qua khỏi rồi, tất cả các thứ đều trở lại như cũ. Này A Nan, thầy xem đấy! Như Lai trong đời quá khứ, đối với chư Phật, Bồ-tát, thiện tri thức, Thanh-văn, Duyên-giác, chư tăng, cha mẹ, kì lão, niên trưởng, sa-môn, bà-la-môn, Như Lai đều nghiêng mình cúi đầu, cho nên được phước báo tối thắng như thế. Này A Nan, thầy xem đấy! Những kẻ phàm phu ngu si, đối với các bậc tôn trưởng, không có tâm kính trọng, không lễ bái, một mực kiêu mạn, tự thị. Họ bị hại, bị trói buộc bởi tánh kiêu mạn. Này A Nan, thầy xem đấy! Những màng lưới mỏng nơi các kẽ tay kẽ chân của Như Lai, đó là tướng tốt do tu tập các hạnh lành mà có. Như Lai đã tu tập các hạnh lành bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự; và dùng các hạnh lành này để nhiếp hộ chúng sinh, mà không hề phân biệt đây là cha tôi, đây là mẹ tôi, đây là anh chị em, họ hàng và bạn bè của tôi. Như Lai đối với chúng sinh hoàn toàn bình đẳng, tâm không phân biệt. Này A Nan! Từ quá khứ xa xăm, không có chúng sinh nào mà Như Lai không dùng bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự để nhiếp hộ; đối với những kẻ phàm phu ngu si, Như Lai cũng nhiếp hộ như vậy. Nhưng vì họ không biết dùng những căn lành, những nhân duyên phước đức này, nên cứ phải chịu quả báo trong vòng sinh tử. Này A Nan! Như Lai giúp cho chúng sinh trồng căn lành để có được niềm vui phước đức, và nhiều người trong số đó do tự thân tu tập các nghiệp lành mà được phước báo. Nhưng, này A Nan! Tất cả những cái vui ở thế gian đều là vô thường, vì đó là pháp biến đổi; kể cả niềm vui phước đức kia cũng là vô thường. Trong thời kì Như Lai tu tập hạnh Bồ-tát, thường vì những kẻ phàm ngu mà làm cho họ thành thục Phật đạo, khiến cho họ thành tựu pháp vô vi của bậc Thánh, được niềm vui vô lậu. Niềm vui vô lậu này là thường, không biến đổi, không tiêu hoại. Vì vậy cho nên, này A Nan! Bậc Thánh trí thì tu tập các nghiệp lành; và bậc Thánh trí tu tập các nghiệp lành như thế thì gọi là chánh nghiệp. Này A Nan! Như Lai vốn cũng đã từng dùng Thánh trí này mà tu tập các nghiệp lành. Này A Nan! Như Lai lại nói đến các hạnh lành khác. Nếu có người vì đạo quả niết-bàn mà phát tâm tạo chỉ một căn lành nhỏ để gieo làm hạt giống, hoặc nghe Phật nói giáo pháp vi diệu, hiểu sâu nghĩa lí, nhớ nghĩ tới Phật, sinh tâm quí kính, nhớ nghĩ than thở mà rơi nước mắt. Người như thế mà phải đọa vào các chốn địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sinh, là không có lẽ đó; người như thế mà không đạt được đạo quả Bồ-đề rốt ráo, cũng không có lẽ đó! Này A Nan! Lại có người cảm niệm công đức của Như Lai đã giác ngộ thật tướng của vạn pháp, rồi nhớ nghĩ than thở mà chảy nước mắt; này A Nan! Nếu người này bị đọa vào các đường dữ địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sinh, thì không có lẽ đó.

Vì vậy cho nên, này A Nan! Quí thầy chớ nên buông lung, hãy sử dụng phương tiện để tu tập các nghiệp lành. Này A Nan! Chư Phật đều do không buông lungtu tập đầy đủ các pháp trợ đạo; và cũng do không buông lungchứng đạo Bồ-đề. Này A Nan! Nếu có người mong cầu được thương xót, được giáo hóa, được lợi ích, được an lạc, thì quí thầy nên khởi tâm bi mẫn, theo lời dạy của Như Lai mà độ họ.

“Những gì đáng làm Như Lai đã làm xong. Quí thầy cũng nên làm như vậy; đừng để cho đạo chân thật bị dứt tuyệt, đừng để cho chánh pháp nhãn của Phật bị ẩn mất. Này A Nan! Quí thầy hãy làm cho pháp nhãn của Phật trường cửuthế gian, lưu bố rộng rãi ở khắp các hàng trời, người.

“Này A Nan! Hôm nay Như Lai đem kho tàng Pháp Bảo phó chúc cho thầy, chớ để cho nó bị hủy diệt! Cứ như thế mà hành trì! Đó là giáo huấn của Như Lai.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11720)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12042)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11194)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11433)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12138)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12644)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10859)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18100)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11806)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10027)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10236)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12444)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15447)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11313)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14416)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12198)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15493)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12090)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12489)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11277)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12165)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10700)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12619)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13263)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14971)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12785)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16668)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19768)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13205)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12756)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12366)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11958)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 11010)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13620)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12032)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11935)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11716)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12841)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14624)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12708)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15766)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13709)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13002)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9955)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18108)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11257)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9151)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12280)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13134)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10376)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12267)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15447)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16691)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12323)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11592)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14364)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19848)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14242)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24733)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10773)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant