Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Phần Dịch Nghĩa

27 Tháng Hai 201100:00(Xem: 15767)
3. Phần Dịch Nghĩa

KINH PHỔ MÔN
Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẦN DỊCH NGHĨA

NGHI THỨC KHAI KINH

(Phần nghi thức này không thuộc Kinh văn nhưng cần tụng niệm trước để tâm thức được an tịnh trước khi đi vào tụng đọc Kinh văn)

NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đốt hương trầm, đứng ngay ngắn chắp tay ngang ngực thầm niệm theo nghi thức dưới đây.)

Tịnh pháp giới chân ngôn:

Án lam tóa ha.
(3 lần)

Tịnh tam nghiệp chân ngôn:

Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám.
(3 lần)
(Chủ lễ thắp 3 cây hương, quỳ ngay ngắn nâng hương lên ngang trán niệm bài Cúng hương sau đây.)

Cúng hương tán Phật

Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới.
Cúng dường nhất thiết Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ Tát,
Vô biên Thanh văn chúng,
Cập nhất thiết thánh hiền.
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác Phật sự.
Phổ huân chư chúng sanh,
Giai phát Bồ-đề tâm,
Viễn ly chư vọng nghiệp,
Viên thành vô thượng đạo.
(Chủ lễ xá 3 xá rồi đọc bài Kỳ nguyện dưới đây.)

Kỳ nguyện

Tư thời đệ tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, tập thử công đức, nguyện thập phương thường trú Tam bảo, Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Tiếp Dẫn Đạo Sư A-di-đà Phật... từ bi gia hộ đệ tử... .... Pháp danh... .... phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, thường hoạch kiết tường, vĩnh ly khổ ách. Phổ nguyện âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh tề thành Phật đạo.
(Cắm hương ngay ngắn vào lư hương rồi đứng thẳng chắp tay niệm bài Tán Phật sau đây.)

Tán Phật

Pháp vương vô thượng tôn,
Tam giới vô luân thất.
Thiên nhân chi Đạo sư,
Tứ sanh chi từ phụ.
Ư nhất niệm quy y,
Năng diệt tam kỳ nghiệp.
Xưng dương nhược tán thán,
Ức kiếp mạc năng tận.

Quán tưởng

Năng lễ sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì.
Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ

Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn pháp, Hiền thánh tăng thường trú Tam bảo.
(1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo chủ Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật, Đại trí Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây phương Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại bi A-di-đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
(1 lạy)
(Từ đây bắt đầu khai chuông mõ, đại chúng đồng tụng.)

Tán Hương

Lư hương xạ nhiệt,
Pháp giới mông huân,
Chư Phật hải hội tất diêu văn,
Tùy xứ kiết tường vân,
Thành ý phương ân,
Chư Phật hiện toàn thân.
Nam-mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma-ha-tát.
(3 lần)

Chú Đại Bi

Nam-mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thơcs bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a rị da bà lô kiết đế, thất phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da dế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết, tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bàyết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 ln)

Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
(3 lần)

Khai kinh kệ

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
Nam-mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần)

 

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

PHẨM PHỔ MÔN
BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

(Dao Tn, Tam Tng Pháp Sư Cưu-ma-la-thp vâng chiếu dch)


Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Bồ Tát Quán Thế Âm danh hiệu ấy?”
Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý rằng: “Thiện nam tử! Nếu có vô số trăm ngàn vạn ức chúng sanh đang chịu đựng các điều khổ não, hết lòng xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, ngài liền lắng nghe theo âm thanh đó mà giải thoát cho hết thảy.
“Nếu có người trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù cho nhảy vào lửa dữ, lửa cũng không thiêu đốt được.
“Nếu bị trôi dạt theo dòng nước lớn, niệm danh hiệu ngài liền gặp chỗ nước cạn.
“Như có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì muốn tìm vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, các thứ bảo vật... liền đi ra biển cả, bỗng có cơn bão lớn xô đẩy thuyền trôi dạt vào cõi quỷ la-sát. Trong số ấy chỉ cần có một người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì hết thảy mọi người liền được thoát khỏi nạn quỷ la-sát. Do nhân duyên như vậy, nên Bồ Tát Quán Thế Âm mới có danh hiệu ấy.
“Thiện nam tử! Nếu có người bị kẻ khác đánh hại, niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, những dao gậy của kẻ kia liền tự hư hoại, nhờ đó được giải thoát.
“Giả sử như trong cõi tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy những loài quỷ dữ Dạ-xoa, La-sát luôn muốn hại người. Nghe xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm rồi, những loài quỷ ấy chẳng dám lấy mắt dữ nhìn người, huống hồ là làm hại?
“Nếu có người bị gông cùm xiềng xích, hoặc có tội, hoặc vô tội, khi xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, gông cùm xiềng xích đều tự nhiên tan rã, liền được giải thoát.
“Giả sử như trong cõi Tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy những bọn giặc cướp. Có một thương chủ cùng những thương nhân khác mang các loại hàng hóa quý giá đi qua quãng đường nguy hiểm. Trong những người ấy, có một người nói rằng: ‘Các vị, xin đừng hoảng hốt. Chúng ta nên hết lòngxưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Vị Bồ Tát này thường mang sự an ổn đến cho hết thảy chúng sanh. Nếu chúng ta xưng danh hiệu ngài, tất được thoát khỏi nạn giặc cướp.’ Những người buôn trong đoàn nghe như vậy rồi liền cùng nhau xưng niệm: Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Xưng danh hiệu Bồ Tát rồi, liền được giải thoát.
“Vô Tận Ý! Sức oai thần của Bồ Tát Quán Thế Âm mạnh mẽ như thế đó.
“Nếu có người mê đắm chuyện dâm dục, thường cung kính niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, liền bỏ được sự dâm dục.
“Nếu có người hay nóng giận, thường cung kính niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, liền bỏ được sự nóng giận.
“Nếu có người tâm tánh ngu si, thường cung kính niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, liền bỏ được sự ngu si.
“Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần như vậy, thường làm lợi ích. Vì vậy chúng sanh nên thường niệm tưởng danh hiệu của ngài.
“Nếu có người muốn sanh con trai, cúng dường lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, liền sanh được con trai có trí huệ, phước đức. Nếu muốn sanh con gái, liền sanh con gái xinh đẹp, nết na, được người người yêu chuộng.
“Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần như vậy. Nếu có người cung kính lễ bái, được phước đức đúng thật như thế. Vì vậy hết thảy chúng sanh đều nên thọ trì danh hiệu ngài.
“Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh hiệu các vị Bồ Tát nhiều như số cát sáu mươi hai ức sông Hằng, lại trọn đời dâng cúng các món ăn thức uống, quần áo, giường ghế, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Người ấy được phước đức nhiều chăng?”
Vô Tận Ý thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thật là nhiều lắm.”
Phật nói: “Lại nếu như có người khác thọ trì danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, thậm chí chỉ một lần cúng dường lễ bái mà thôi. Phước đức của hai người ấy so ra chẳng khác gì nhau, trong trăm ngàn vạn ức kiếp đều chẳng thể cùng tận.
“Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm được sự lợi ích, phước đức không thể đo lường, không có giới hạn.”
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm đi khắp cõi thế giới Ta-bà này như thế nào? Vì chúng sanhthuyết pháp như thế nào? Sức phương tiện hóa hiện ra sao?”
Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Thiện nam tử! Nếu có những cõi nước mà chúng sanh nơi ấy phải dùng thân Phật mới độ thoát được, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện ra thân Phật để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Phật Bích-chi mới độ thoát được, liền hiện ra thân Phật Bích-chi để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Thanh văn mới độ thoát được, liền hiện ra thân Thanh văn để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Phạm vương mới độ thoát được, liền hiện ra thân Phạm vương để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Đế-thích mới độ thoát được, liền hiện ra thân Đế-thích để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Tự tại thiên mới độ thoát được, liền hiện ra thân Tự tại thiên để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Đại tự tại thiên mới độ thoát được, liền hiện ra thân Đại tự tại thiên để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Thiên đại tướng quân mới độ thoát được, liền hiện ra thân Thiên đại tướng quân để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Tỳ-sa-môn mới độ thoát được, liền hiện ra thân Tỳ-sa-môn để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân tiểu vương mới độ thoát được, liền hiện ra thân tiểu vương để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân trưởng giả mới độ thoát được, liền hiện ra thân trưởng giả để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân cư sĩ mới độ thoát được, liền hiện ra thân cư sĩ để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân tể quan mới độ thoát được, liền hiện ra thân tể quan để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân bà-la-môn mới độ thoát được, liền hiện ra thân bà-la-môn để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di mới độ thoát được, liền hiện ra thân tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân phụ nữ là trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà-la-môn mới độ thoát được, liền hiện ra những thân phụ nữ như vậy để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân đồng nam, đồng nữ mới độ thoát được, liền hiện ra thân đồng nam, đồng nữ để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng những thân trời, người, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già... mới độ thoát được, liền hiện ra những thân như vậy để thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân thần Chấp kim cang mới độ thoát được, liền hiện ra thân thần Chấp kim cang để thuyết pháp.
“Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu những công đức như vậy, hóa hiện ra đủ loại hình tướng ở khắp các cõi nước mà độ thoát cho chúng sanh. Vì vậy nên các ông nên hết lòngcúng dường ngài. Bồ Tát Quán Thế Âm trong những lúc nguy cấp tai ương thường mang đến sự an ổn cho chúng sanh, nên cõi Ta-bà này xưng hiệu ngài là Thí Vô Úy.”

Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay con xin cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.” Liền cởi xâu chuỗi bằng hạt châu anh lạc trị giá trăm ngàn lượng vàng mà dâng lên Bồ Tát Quán Thế Âm, thưa rằng: “Xin ngài nhận lấy món pháp thí trân bảo anh lạc này.”
Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm từ chối chẳng nhận.
Bồ Tát Vô Tận Ý lại thưa rằng: “Xin ngài vì thương đến chúng tôi mà nhận lấy xâu chuỗi anh lạc này.”
Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Nên thương đến Bồ Tát Vô Tận ÝBốn chúng, cùng với các loài trời, người, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già mà thọ nhận chuỗi anh lạc ấy.”
Ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm vì lòng thương đến Bồ Tát Vô Tận ÝBốn chúng, cùng với hết thảy các loài trời, rồng, cho đến loài người, loài chẳng phải người... liền thọ nhận chuỗi anh lạc ấy, chia làm hai phần. Một phần cúng dường đức Phật Thích-ca Mâu-ni, một phần cúng dường tháp Phật Đa Bảo.

“Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần tự tại hóa hiện khắp cõi thế giới Ta-bà.”
Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý đọc kệ thưa hỏi rằng:


Đức Thế Tôn đủ đầy diu tướng,
Con nay xin th
ưa hi đôi ln.
Có B
Tát tên Quán Thế Âm,
Nhân duyên gì x
ưng danh hiu y?”


Đứ
c Thế Tôn đủ đầy diu tướng,
K
đáp rng: “Ông hãy lng nghe,
B
Tát Quán Thế Âm hnh nguyn,
C
ũng rng sâu như bin, như tri.


Khéo hóa hi
n nơi nơi, chn chn,
Tr
i bao đời d biết hết sao?
V
n đã gp muôn ngàn đức Pht,
Phát kh
i li nguyn ln sch trong.


Ta nay s
vì ông lược nói:
Dù nghe tên hay
được thy người,
Trong tâm ni
m tưởng hoài không dt,
Li
n dit đi kh nn muôn phn.


Ho
c có người khi tâm hãm hi
Đ
em b vào hm la đốt thiêu.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
H
m la kia lin hóa ao lành.


Ho
c trôi dt gia vùng bin c,
G
p qu, thn, rng, cá khn nguy.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
Sóng d
kia chng th hi mình.


Ho
c t trên đỉnh núi Tu-di,
B
k ác đẩy xô rơi xung.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
Nh
ư mt tri vng gia hư không.

Hoc b k ác tâm rượt đui,
Tr
n chy vào tn núi Kim cang.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
Dù m
y lông chng tn hi gì.

Hoc gp phi nhng phường gic cướp,
C
m gy dao ch chc hi người.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
Gi
c cướp kia lin khi lòng lành.

Hoc b nn vua quan hãm hi,
Ch
u th hình sp phi đầu rơi.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
Đ
ao kiếm lin t hy hoi ngay.

Hoc chu nhng oan khiên tù ngc,
Ph
i gông cùm xing xích tay chân.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
Li
n t nhiên được thoát ngc tù.


Ho
c b nhng tà ma chú thut,
Thu
c độc dùng làm hi đến thân.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
Tai ách kia tr
li cho người.


Ho
c gp phi nn tai la-sát,
V
i qu thn, rng độc him nguy.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
H
ết thy đều chng hi đến thân.


Ho
c b hi bi loài thú d,
L
y vut, nanh đe da khiếp hn.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
Thú d
kia lin phi chy xa.


Ho
c có nhng rn, trăn, rết d,
Khí
độc phun như la khói xông.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
Theo âm thanh li
n t phn hi.


Ho
c gp lúc gió giông sm dy,
M
ưa ngp tri nước lũ trào dâng.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
Ngay t
c thi hết thy tiêu tan.


Chúng sanh g
p biết bao kh nn,
Bao hi
m nguy rình rp quanh mình.
S
c thn ca Quán Âm diu trí,
Th
ường cu nguy bt kh thế gian.

Đầy đủ sc thn thông biến hóa,
L
i rng tu phương tin trí minh.
G
n xa khp mười phương cõi nước,
Ch
ng nơi nào ngài chng hin thân.

Các đường d súc sanh, ng qu,
Ho
c là nơi địa ngc khn cùng.
Ch
u nhng kh sanh, già, bnh, chết,
Quán Âm li
n cu vt dn cho.

Ch nim tưởng sch trong, chân tht,
Trí hu
thêm rng ln bao la,
Lòng lân m
n xót thương tt c,
Khi
ến chúng nhân thường l bái ngài.

Hào quang ngài sáng trong thanh tnh,
Nh
ư mt tri phá sch ti tăm.
Th
ường trđược nn tai gió la,
Chi
ếu soi cùng chn chn thế gian.

Th lòng bi rn như sm động,
Di
u ý t mây ln ch che.
Đổ
mưa Pháp cam l khp cõi,
D
p tt lin phin não la kia.

Tranh giành nhau đến trước ca quan,
Ho
c gia chn trn tin run ry.
Nh
sc nim Quán Âm cu độ,
H
ết thy điu oán hn lùi xa.

Tiếng vi diu, nghe li cu cu,
Ti
ếng cõi tri, như sóng bin dâng.
V
ượt xa nhng âm thanh thế tc,
Nên ng
ười người hãy nh nim xưng.


Khi ni
m tưởng ch sanh nghi ngi,
Quán Th
ế Âm bc thánh trong lành.
Gi
a nhng chn nguy nan, ách nn,
Th
ường vì người cu độ ch che.
Đ
ã thành tu đủđầy công đức,
Dùng m
t lành quán sát chúng sanh.
Ph
ước tích t vô biên như bin,
Kh
p tri người nên l ly chung.”


Bấy giờ, Bồ Tát Trì Địa từ chỗ ngồi liền đứng dậy, bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào được nghe phẩm kinh nói về sức thần thông tự tại hóa hiện khắp mọi nhà của Bồ Tát Quán Thế Âm này, nên biết rằng chỗ công đức của người ấy thật không phải ít.”
Khi Phật thuyết phẩm kinh Phổ Môn này rồi, trong chúng hội có tám vạn bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm vô thượng Bồ-đề cầu quả vị Phật.


CHÚ GIẢI

 

Phẩm Phổ Môn này là phẩm thứ 25 trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi đầy đủ là Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, gọi tắt là Phổ Môn Phẩm. Trong khi tụng niệm, Phật tử vẫn thường gọi là kinh Phổ môn. “Lúc ấy” là chỉ cho thời điểm bắt đầu nói phẩm kinh này.

Tiếng Phạn là Akṣayamati.

Tiếng Phạn là Avalokiteśvara.

Tam thiên đại thiên thế giới: cũng tức là một đại thiên thế giới. Theo ghi chép trong kinh điển, cứ 1.000 thế giới hợp lại thành một tiểu thiên thế giới; 1.000 tiểu thế giới hợp lại thành một trung thiên thế giới; 1.000 trung thiên thế giới hợp lại thành một đại thiên thế giới. Như vậy, mỗi đại thiên thế giới bao gồm 1.000.000.000 thế giới, được nhân bởi ba lần 1.000 (thiên) nên cũng gọi là tam thiên đại thiên thế giới. Khái niệm này thường được hiểu một cách tượng trưng hơn là những số đếm chính xác. Vì thế, tam thiên đại thiên thế giới ở đây có thể hiểu là đầy khắp cả mọi nơi, đâu đâu cũng có...

Tiếng Phạn là Yakkha.

Tiếng Phạn là Rākṣasa.

Đây là cách nói biểu trưng, cho thấy số lượng rất nhiều. Số cát của một sông Hằng, còn không kể xiết, huống chi đến sáu mươi hai ức sông Hằng?

Thí Vô Úy: Tiếng Phạn là Abhayapradāna, nghĩa là mang lại sự an ổn, không sợ sệt cho người khác.

Bốn chúng: Bốn hàng đệ tử của Phật. Đó là tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc và ưu-bà-di.

Tiếng Phạn là Prabhūtaratna, dịch âm là Bào-hưu La-lan, dịch nghĩa là Đa Bảo Phật, Bảo Thắng Phật, Đại Bảo Phật, hay Đa Bảo Như lai. Trong phẩm thứ 11 trước đó (phẩm Hiện bảo tháp, kinh Diệu Pháp Liên Hoa), tháp Phật Đa Bảo vừa hóa hiện trước mặt đại chúng, nên Bồ Tát Quán Thế Âm nhân đó cúng dường tháp Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22519)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16126)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15089)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 19113)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14539)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18719)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14507)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13701)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13657)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11925)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13346)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13740)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 14030)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13335)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15127)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16246)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11165)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16535)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12018)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17700)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12952)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13774)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12947)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14945)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16494)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13243)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12195)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12881)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 13022)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12871)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14311)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14215)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16623)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12474)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14488)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11433)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11135)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13284)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13991)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13280)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13108)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13606)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12836)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10338)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14068)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10290)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13788)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16361)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12071)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13059)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11734)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12755)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10901)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11070)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11024)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11967)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12882)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11166)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12692)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11433)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant