Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha có nghĩa là một đoàn thể sống chung với nhauít nhất là bốn người, bỏ nhà đi tu, giữ đủ giới luật của Phật đặt ra, với tôn chỉtự giác, giác tha, tự lợi, lợi tha, nhằm mục đích giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh. Trong đoàn thể Tăng giàgồm có nam lẫn nữ, nam được gọi là Tỳ khưu, nữ gọi là Tỳ khưu Ni, nhưng bắt buộc phải sống riêng rẽ trong các chùa hoặc tu viện, chứ không được sống chung dưới một mái chùa. Phật giáo Việt Nam dùng danh từ Tăng để chỉ phái nam xuất gia và Ni để chỉ phái nữ xuất gia, nhưng thật ra thì các vị Ni cũng vẫn ở trong đoàn thể Tăng già(Sangha).
Muốn được gọi là Tăng (cả nam lẫn nữ) điều kiện bắt buộc là phải xuất gia, cạo đầu, mặc quần áo nhà chùa, giữ đủ Cụ túc giới. Nam giữ 250 giới, nữ giữ 348 giới. Khi cắt ái ly gia nghĩa là cắt đứt mọi tình yêu tầm thường trong đời và lìa khỏi nhà, từ giã gia đình để vào chùa tu, người con Phật phải hiểu rõ ba ý nghĩa của danh từ xuất gia:
1. Xuất thế tục chi gia: Ra khỏi nhà thế tục, lìa bỏgia đình, danh lợi trong cuộc sống tầm thường, bỏ luôn cả họ tên để lấy họ Thích và pháp danh do sư trưởng đặt cho. Mọi liên hệgia đình, họ hàng từ nay chấm dứt, để tu hànhtự giác giác tha, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, không phân biệtthân sơ.
2. Xuất phiền não chi gia: Ra khỏi nhà phiền nãođau khổ nung nấu từ khi mới sinh ra, bị trói buộc trong những sợi dây của tiền bạc, danh vọng, nhà cửa, gia đình, vợ con, ăn ngon mặc đẹp, giao dịch... từ nay xin bỏ hết để tìm đường thoát khổ nạnsinh tử luân hồi cho mình và cho tất cả chúng sinh.
3. Xuất vô minh chi gia: Ra khỏi nhà vô minh tăm tối đã giam hãmchúng sinh trong ba cõi, sáu đường vì tham, sân, si... nay quyết tâmtu hành, dứt trừ vô minh, để tìm ra ánh sáng của chân lý, đạt đến chỗ giác ngộ và giải thoát. Sau khi đã xuất giathọ giới, một vị Tăng phải nhập chúng, nghĩa là sống trong chùa, tu viện hoặc Phật học đường, tuyệt đối không được sống trong tư gia của người thế tục và phải tuân theoLục hòa:
1. Thân hòa đồng trú: Thân sống hòa thuận tại một nơi với các vị Tăng khác.
2. Khẩu hòavô tránh: Miệng nói lời hòa thuận, không tranh cãi, to tiếng, nhiều lời, chỉ nói đúngsự thật.
3. Ý hòa đồng duyệt: Tư tưởnghòa thuậnvui vẻ với các bạn đồng tu.
4. Giới hòa đồng tu: Tuân theo các giới luật cấm của Phật để tu sửa thân tâm trong niềm hòa ái với mọi người, vui vẻ nhắc nhở nhau cũng giữ giới cho thanh tịnh.
5. Kiến hòa đồng giải: Có những hiểu biết chân chánh, xác thực về đường lối tu hành thì mang ra giải thích cho các bạn tu cùng nghe và hiểu.
6. Lợi hòa đồng huân: Các mối lợi như tiền bạc, thực phẩm, quần áo, thuốc men, sách vở, chăn nệm... của thí chủcúng dường thì chia nhau thật đều, cùng hưởng trong sự hòa thuận an vui. Nói rộng thì người xuất gia phải giữ 250 giới, nhưng tóm lại vẫn không ngoài ngũ giới và lục hòa. Người con Phật xuất gia phải giữ giới luật và sống lục hòa, nếu không thì không xứng đáng gọi là Tăng nữa.
Một vị Tăng còn phải sống một cuộc đờihy sinh dứt bỏ, coi tiền bạc như rắn độc, danh lợi như đôi dép rách, sắc đẹp như cạm bẫy, ăn ngon mặc đẹp như xiềng xích buộc ràng, một vị Tăng phải sống Tam thường bất túc, nghĩa là ăn mặc, ngủ nghỉ không được sung túc, đầy đủ. Ăn chay xong việc thì thôi, miễn là khỏe mạnh để tu hành. Áo mặc thì đủ tam y, không rách rưới bẩn thỉu là được. Ngủ nghỉ để giữ gìnsức khỏe, miễn là có nơi yên tỉnh, không ồn ào để tiện việc ngồi thiền, không đòi hỏi phải chăn êm, nệm ấm. Một vị Tăng có sống trong sự bất túc mới thông cảm nỗi khổ với người nghèo, mới thao thức nội tâm để tìm đườngcứu khổ cho chúng sinh. Con ngựa ăn no không chạy mạnh kéo khỏe, một vị Tăng ăn ngon mặc đẹp thì dễ lười biếng, khó thiền định, tụng kinh, niệm Phật.
Khi ăn cơm, một vị Tăng phải Tam đề, Ngũ quán. Bắt đầu bữa phải ăn ba miếng cơm nhạt, khi nhai miếng thứ nhất phải nguyện không làm điều ác, khi nhai miếng thứ hai phải nguyện chỉ làm việc lành, khi nhai miếng thứ ba phải nguyện cứu độ tất cả chúng sinh. Đó là Tam đề, nhắc nhở phải giữ giới, tu thiền, tự giác, giác tha. Còn Ngũ quán là trong khi bưng bát cơm ăn phải quán năm công ơn mà mình đang thọ hưởng: công ơn Phật giáng trần cứu độchúng sinh, công ơnsư trưởng dạy dỗ, công ơncha mẹsinh thànhdưỡng dục, công ơnthí chủcúng dường, công ơnmọi người trong xã hội làm lụng khó nhọc mới có gạo ăn, vải mặc... Phải quán sátrõ ràng mấy bát cơm này do đâu mà có, rồi phát sinh tâm tinh tấntu hành để báo đáp lại mọi công ơn mà mình đang hưởng thụ. Đó là Ngũ quán mà các vị Tăng phải thực hànhtrong suốtbữa ăn, không được chuyện trò vô ích; vì vậy trong bữa ăn, các vị Tăng đều yên lặng để thực hànhNgũ quán, nếu nói cười lăng xăng thì làm sao mà quán sát được.
Đức Phật dạy: Nếu thiếu Tam đề, Ngũ quán thì thức ăn không tiêu, nghĩa là mắc nợchồng chất, nghiệp chướng đầy dẫy, phải trả quả nặng nề khổ sở. Đức Phật dạy các vị Tăng không được ăn quá giờ Ngọ, vì ăn cơm chiều thì nặng bụng khó ngồi thiền định, tĩnh tâm, lại làm các quỷ đói nghe tiếng động của bát chén mà thèm thuồngăn uống.
Như vậy rõ ràng là hưởng sự cúng dường của thí chủ rất là khó khăn và đáng sợ, ai phí phạm của thường trụ thì phải trả quả báo nặng nề, đừng tưởng của chùa muốn sao cũng được. Các cụ Việt Nam thường dạy con cháu: Của chùa lấy một đền mười. Các vị Tăng cần phảiquán tâm về sự hưởng thụ và phải tinh tấntu hành để đáp lạicông ơn của thí chủ, nếu không thì sẽ chịu quả báo như câu chuyệnThạch nữ dưới đây:
Hoàng hậu vợ vua Ba Tư Nặc (Ấn Độ) đi nghe Phật thuyết pháp, thường ngồi kiệu do bốn Thạch nữ khiêng (Thạch nữ là người ái nam, ái nữ, không có dục tính, tâm tình thô bạo, thân thể cứng như đá). Phật dạy: Một kiếp nọ có bốn vị Bà la mônxuất gia nhưng lười biếng chẳng chịu tu hành; họ mưu mô với nhau, ba người ngồi dưới gốc câygiả dạngthiền định, còn người thứ tư thì vào thành nói rằng có ba vị A la hán đã đắc quả, ai cúng dường thì được nhiều phước báu. Họ cứ thay phiên nhau mà loan truyền như vậy, dân chúng kéo đến cúng dường rất đông, do đó bốn người được no đủ. Trong số thí chủ có một bà giànghèo khổ, làm lụng khó nhọc mới có đủ cơm ăn, nhưng ngày nào cũng nhịn một bát cơm để cúng dường bốn vị này, nhận mấy vị này làm thầy, hầu hạ, quét dọn với một tâm ý hoàn toànthanh tịnh. Do phước báu tốt đẹp, kiếp này bà sanh làm hoàng hậu, giàu cóxinh đẹp. Còn bốn vị Bà la môntu hànhgiả dối thì tái sinh làm Thạch nữ khiêng kiệu hầu bà để trả nợ tiền căn". Nghe Phật nói xong, hoàng hậu sợ quá không dám bắt bốn vị thầy cũ của mình ở kiếp trước phải khiêng kiệu, hầu hạ cực nhọc, mà còn cho họ được tự do, thoát vòng nô lệ. Nhưng được tự do, bốn người Thạch nữ lại không sao kiếm được miếng ăn, vì dân chúng chẳng ai mướn họ. Bị đói khát, họ lại đến xin hoàng hậu cho tiếp tục khiêng kiệu như trước.
Thiết tưởng câu chuyện này đáng được nhiều người suy gẫm, các vị xuất gia phải tu hành sao cho xứng đáng là Tăng, còn các Phật tửtại gia hãy suy xét, cúng dường những vị Tăng chân chính.
Đức Phật luôn nhắc nhở các vị Tăng phải tu hành tinh tấn, trên cầu đạogiải thoát, dưới cứu khổchúng sinh, sống cuộc đời dứt bỏ, coi danh lợi như mớ tóc đã cạo ngày xuất gia, ngày đêm nhớ luật vô thường, nắm lý vô ngã, cần tu hành như lửa cháy dầu, đêm đặt mình xuống giường không biết sáng mai còn thở nữa không? Quỷ vô thường đến gọi lúc nào không báo trước và cũng không hẹn phút giây.
Trên đây chỉ là phác họa những định nghĩa, giới luật và lý tưởng của một vị Tăng. Nếu ai đã có đủ những điều kiện này, thì đó là một vị Tăng chân chính, đúng là con Phật chúng ta cần quỳ lễ lạy, thân cận học hỏi và cúng dường. Đó là chúng ta đã tìm thấy Tăng, đúng nghĩa chân thật của người con Phật "Chúng trung tôn", nghĩa là người đáng được tôn kính trong Tăng chúng. Nhưng trái lại, nếu thấy một vị Tăng nào, cũng ở chùa, giữ chức tước này nọ mà không theo được phần nào những điều kiện tối cần cho việc tu hành, thì đó không phải là một vị Tăng chân chính, không xứng đáng là con Phật, chúng ta cần xa lánh, đừng vin vào câu "Thờ Phật thì trọng Tăng", kẻo vô tình làm hại các vị đó kiếp sau phải trả quảcực nhọc như các Thạch nữ.
Tìm thấy Tăng qua hình bóng của một vị xuất giagiữ giớitu hànhchân thật, mới là đúng về mặt sự mà nói. Còn cao hơn một bậc nữa nếu đứng về lý thì Tăng là sự thanh tịnh, hòa hợp, nhu nhuyễn, tượng trưng cho một đời sống thanh cao, an tịnh, huyền diệu, tất cả những gì thanh thoát nhẹ nhàng, nâng caocon người hướng về nẻo thiện, quay vềchân lý, như làn gió mát đồng quê, như bản nhạc êm dịu, như ánh trăng trong sángxuyên qua bóng tối chập chờn, như tiếng chuông chùa văng vẳng buổi hoàng hôn... tất cả những gì nhắc nhở chúng ta phải bỏ lòng ích kỷ, mở rộngtình thương, phải sống cho tất cả muôn loài, phải giúp ích cho xả hội cùng tiến trên con đườnglàm lành lánh dữ, tự giác giác tha... đó chính là Tăng, là lý tưởng của cuộc đờigiải thoát.
Tìm biết lý tưởngtu hành, sống với lý tưởng, đạt đượclý tưởng, thì chúng ta đã tìm thấy Tăng, là đức tính thanh tịnh sẵn có trong tâm. Đừng vọng ngoại tìm cầu, vị Tăng thanh tịnh lúc nào cũng có sẵn trong tâm, hãy lắng lòng mà quay về bên trong thì sẽ trông thấy Tăng, nghe thấy Tăng và học hỏi với Tăng, đây mới chính là vị thầy chân chính, cao quý hơn hết, đây mới chính là vị thầy sẽ hướng dẫn chúng ta đến chỗ giác ngộ và giải thoát. Chúng ta cần quy y với vị Tăng trong tâm chúng ta, một vị thầy không bao giờ sai lầm. Ngài sẵn sàng dạy dỗ chúng ta như mẹ hiền thương con, miễn làchúng ta biết quay về với ngài, đó là vị Tăng thanh tịnh, đó chính là chân tâm, Phật tánh.
(1) Trích: Minh Tâm, "Tìm Phật Ở Đâu?", NXB Văn Nghệ, California, Hoa Kỳ
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biếnPhật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinhTây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sưThái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩaĐại thừaTiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
Luận Phật ThừaTông Yếu là tùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bản và cương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sưThái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái HưPháp sư, thấy tóm tắtdễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơhiện tại... Thái Hư
Theo Viên Trừng – Trạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhã và trước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháptùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũthấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướng ở Lô Sơn, sáng khởiLiên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thànhquy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại HọcVăn Khoa Viện Đại HọcVạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giả là Bồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩVô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôibiên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phầntâm linh và vật chấtcấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
“Vũ trụ vạn hữubản thể luận” của Định Hy là một kiến giảinhân sinhvũ trụ trên hai phương diệnbản thể và hiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháptrong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ TổTây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
Trọng tâmcứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
Sự giải thoáttinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sảntinh thần...
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràngtrong sáng.
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
Thật ra sanh tử là do tâm thứcvô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không không có hoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giảnghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn HọcA Tỳ Ðàm...
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát nahiện tiền) hay pháp chánhtri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợihết sức tán thưởng là có ý nghĩasâu xa của nó.
Vì lòng thương xótchúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tônđặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thân và pháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.