Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đường Đến Đạo Phật

24 Tháng Tư 201509:00(Xem: 6139)
Đường Đến Đạo Phật
ĐƯỜNG ĐẾN ĐẠO PHẬT

Nguyên tác của Sasha Maggio
Việt dịch: Hoa Đàm Translations Group


Đường Đến Đạo PhậtNhững người mới bắt đầu tìm hiểu Phật giáo để theo thường bị bối rối trước hai câu hỏi quen thuộc sau đây:


- Đạo Phật có nhiều tông phái, vậy các tông phái có bằng hoặc giống nhau không?

- Làm sao chọn lựa một tông phái để theo?


Hai câu hỏi này tuy hai mà là một.

Bài này có tham vọng trả lời hai câu hỏi trên.

Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người. Tuy nhiên, trong trường hợp không biết phải lựa chọn phái nào cho thích hợp với hoàn cảnhbản ngã, việc tìm hiểu một số những điểm chính yếu về tương đồng (giống nhau) và dị biệt (khác nhau) giữa các tông phái, sẽ giúp quí bạn có cái nhìn rõ ràngchính xác hơn khi phải quyết định.

Có hai hoặc ba cách để phân loại Phật giáo một cách khách quan và được công nhận rộng rãi.

- Nếu phân loại theo hai phái thì một Phật tử có thể nằm trong hai môn phái sau: Theravada (Phật giáo nguyên thủy hay Tiểu Thừa hoặc Nam Tông) hoặc Mayhayana (Phật giáo Đại Thừa hoặc Bắc Tông).

- Nếu phân loại theo vùng thì có Phật giáo nguyên thủy Nam Tông, Phật giáo Đông Á (vùng Đông Nam Á Châu) và Phật giáo Tây Tạng. Tuy nhiên, ngoài những hệ phái đó ra, trong lịch sử Phật giáo còn nhiều môn phái khác, nhưng ngày nay không còn nữa.

Sự phân loại này chỉ được áp dụng khi một Phật tử nào đó được hỏi theo môn phái nào thì có chứng cớ để trả lời, không nhất thiết để phân biệt.

Vậy thì tất cả các phái đều giống nhau hoặc bằng nhau?

Câu trả lời vừa đúng vừa không.

- Đúng, nếu mọi Phật tử chấp nhật Đức Phật Thích Ca Mâu NiĐấng Giác Ngộ và là Tôn Sư.

- Đúng, theo cái nghĩa mọi Phật tử đều theo Bát Chánh Đạo (8 con được tu tập để đạt giác ngộ), chấp nhận Tứ Diệu Đế (4 chân lý cao siêu nền tảng của đạo Phật) và tin vào Trung Đạo (Trung Dung) là con Đường tu đạo ở giữa hai thái cực, chống những gì thái quá như tu trì khổ hạnh hay cuộc sống xa hoa đồi trụy.

- Và cũng đúng theo nghĩa: cả hai thành viên của Tăng đoànPhật tử đều tu tập đạt đến Giác Ngộmục tiêu cứu cánh bằng vào việc học hỏithực hành giáo lý nhà Phật.

Thế còn không giống nhau thì sao?

Câu trả lời nằm ở trong bối cảnh lịch sử và địa lý

- Theravada (Phật giáo nguyên thủy) có thể diễn giải như là “học thuyết cổ đại,” một môn phái xưa nhất của Phật giáo vẫn còn tồn tại tới ngày này. Tất cả phương pháp thực hành Phật giáo nguyên thủy đều căn cứ vào bộ giáo lý chữ Pali (Phạn) và các tài liệu lên hệ. Môn phái Phật giáo này hoạt động mạnh tại Tích lan, Thái Lan và Cambodia. Nhưng Phật giáo nguyên thủy cũng hoạt động tại Việt Nam, Trung quốc, Mã Lai, Bangladesh, Hoa Kỳ và một số quốc gia Tây phương.

- Phật giáo Đại Thừa tại Ấn Độ suy tàn theo thời gian, nhưng vẫn còn hoạt động tại Sri Lanca (Tích Lan) và nhiều vùng tại Đông Nam Á châu. Phật giáo Đại thừa còn gọi là Bắc Tông, nói chung chấp nhận các kinh điển Đại Thừa như kinh Pháp Hoa và Kinh Tâm Vô Lượng. Đây là dòng Phật giáo chính hoạt động mạnh tại Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn, Singapore và Việt Nam. Tại Nhật, Phật giáo Đại Thừa bị phân chia thành một số môn phái nhỏ như Nichiren (Nhật Liên), Pure Land, Shingon (Chân Ngôn), Tendai (Thiên Thai) và Thiền Zen. Giữa những môn phái Phật giáo Nhật Bản có những dị biệt nằm ở chỗ con đường tu đạo dẫn đến Giác Ngộ (thực hành) và lấy Bồ tát làm trung tâm. Ví dụ, phái thiền Soto Zen tuân giữ đạo lý Kannon như là trung tâm điểm giáo lý Nhà Phật đặt nặng về lòng thương xóttừ bi. Trong khi đó, Phật giáo Pure Land áp dụng đường tu tập theo giáo lý Amida là Bồ Tát chính.

- Tất cả Phật tử Đại Hàn đều theo phái Phật giáo Thiền Đại Hàn được biết như là Son or Chogye.

- Phật giáo Tây Tạng, là một chi nhánh của Đại Thừa Bắc Tông, cũng được phân loại là Kim Cương thừa (Vajrayana). Phái này sẽ dùng con đường thực hành đạo theo phái Mật tông, một loại kinh điển, làm phương cách đạt Giác Ngộ. Vị Đạt Lai Lạt Ma )Tenzin Gyasto) từng nói về thực hành theo phái Mật tông như sau: “Mật tông chỉ dành cho những người có lòng nhân ái vô biên đến nỗi họ không thể nào bỏ phí một thời gian vô ích trong con đường tu Phật. Họ muốn mau chóng trở thành một nguồn tối thượng để cứu nhân độ thế.”

Làm sao chọn một môn phái Phật giáo để theo cho thích hợp với hoàn cảnh và sở thích?

Trả lời câu hỏi này không thể nào đúng hay thỏa mãn tuyệt đối được. Một khi thông tin về một tông phái hay nhiều tông phái đã được bạn thấu triệt thì việc theo hay không tùy thuộc vào sở thích cá nhân. Xin đưa ra một số bối cảnh để trả lời câu hỏi này.

- Nếu bạn đến với Phật giáo với hành trang thấm nhuần lịch sửvăn hóa Tây Tạng thì bạn sẽ bị lôi cuốn hòa nhập với văn hóa này. Phật giáo Tây Tạng là cách chọn lựa sở đắc hơn cả.

- Trong khi đó, có người đã học hỏi văn hóa Nhật Bản thì lại thích phái Phật giáo Thần tông.

- Quan hệ tiếp xúc cũng là một yếu tố áp lực cho quyết định chọn phái để theo. Nếu một khu vực dân cư có đông người Thái hay người Cam Bốt, còn người Nhật chiếm thiểu số, thì một người muốn theo đạo Phật có khuynh hương tham dự các đền chủa của người Thái hay người Cam Bốt hoặc các phái khác trong khu vực của họ.

Nếu khôngmôn phái hay chùa, tự viện Phật giáo thì sao?

Nếu động cơ thúc đẩy bạn trở thành một Phật tử bất cứ giá nào, thì không có gì ngăn cản bạn đến một vị sư xin quy y. Trong khu mình ở, không có chùa chiền, trường học hay tông phái thì sao? Hãy dùng mọi phương tiện có trong tay hay tại môi trường xung quanh như thư viện, tiệm sách, Internet, bạn bè là Phật tử để tìm hiểutu tập.

Nếu Bồ Tát để cho một người có lòng tu tập mà bị cản trở không thể nào vượt qua thì đạo Phật đã không tồn tại đến ngày nay.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16472)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11934)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12110)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12800)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12748)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10246)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13982)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10247)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13724)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16280)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11991)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12997)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11669)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12697)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10813)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11020)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10960)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11912)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12786)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11080)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12637)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11347)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12541)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14118)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10865)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10539)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11211)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12017)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13172)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12363)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15363)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14343)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12122)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15385)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12017)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12427)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11198)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10631)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12569)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13183)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14856)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12710)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16591)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19683)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12277)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13550)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11649)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12781)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14535)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12629)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15679)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13641)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12916)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18029)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11188)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12197)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13072)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant