Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đời Là Vô Thường

17 Tháng Tư 201509:10(Xem: 21099)
Đời Là Vô Thường
ĐỜI LÀ VÔ THƯỜNG


Toàn Không

Đời Là Vô Thường



(Trung A Hàm quyển 3 từ trang 27 đến 30; Tạp A Hàm quyển 3 Kinh số 953, 955, 956 từ trang 387 đến 392, quyển 4 Kinh số 1227 từ trang 379 đến 382)

1). Vô thường là gì?

Vô thường là thay đổi, không cố định, nay thế này mai thế khác không chắc chắn, Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt” (thành: dựng lên, trụ: ổn cố, hoại: suy tàn, diệt: không còn) hay “sinh, già, bệnh, chết”. Từ tính vô thường đưa đến các đặc tính khác là “Khổ”, “Vô ngã” (không có ta), “Không”; chúng đều là căn bản của đạo Phật, là chân lí trong cuộc đời, là sự thực hiển nhiên không một ai có thể bác bỏ được.

Nhiều người không dám nói đến vô thường, khổ, vô ngã, không, vì họ sợ sự thật; Đạo Phật trái lại, luôn luôn nói về sự thật, phân tích sự thật, vạch trần sự thật; Đạo Phật nói về “Vô thường, khổ, vô ngã, không”, không phải để than trời trách đất rằng tại sao lại như thế, tại sao không cho “thường hằng (sống mãi), sung sướng, thân bất hoại (không tiêu diệt), luôn luôn hiện hữu”?

Đạo Phật nhận chân sự thật để tìm giải pháp đối phó, chứ không phải ngồi đó mà than khóc như nhiều người hiểu lầm cho rằng Phật giáo “Thụ động (hành động trong khuất phục), yếm thế (chán đời)”; chính những người không hiểu sự thật, khi sự việc xảy ra rồi ngồi đó mà than trời trách đất, khóc than, van xin khẩn cầu, đó mới là thụ động yếm thế.

2). Tính chất của vô thường:

Vô thường: có thực chất là thay đổi, nhưng có hai loại thay đổi là thay đổi tốt đẹp khá hơn lên, và thay đổi thoái hóa tồi tệ hơn, chúng ta thử phân tích hai tình trạng của sự thay đổi này.

1- Tình trạng thay đổi tốt hơn:

Thay đổi tốt hơn khá hơn, tiến bộ gây sự thỏa mãn vui thíchchúng ta gọi là lớn lên, thành công, giàu lên, thăng tiến, kết qủa v.v…Như khi ta trồng một cây con còn nhỏ, sau ít năm vun tưới chăm nom, cây lớn lên sinh hoa kết qủa. Tới mùa qủa chín ta có qủa ăn, mọi người ăn đều khen nức nở: “Cây thật qúy qúa, trái ăn ngon qúa!”; đây là vô thường tiến bộ, ta thấy có sự vui.

Một cái xe cũ hư, ta đem sửa cho tốt lại, đó là sự thay đổi của cái xe từ xấu qua tốt. Chúng ta chỉ phải bỏ ra một số tiền trả cho sự sửa chữa sơn phết lại là có xe tốt đẹp chạy; đây là sự thay đổi từ xấu qua tốt, mang lại sự tiện nghi vui vẻ.

Một căn nhà ọp ẹp tồi tàn, chúng ta phá đi, bỏ tiền bạc ra, gia đình góp sức công, mướn người xây dựng căn nhà mới đẹp đẽ tiện nghi; chúng ta có một sự thay đổi rất vui vẻ sau khi hoàn tất ngôi nhà.

Một đứa bé mới ngày nào còn nhỏ tí, nay đã thành người trung niên cường trángvợ con đầy nhà, công danh sự nghiệp thoải mái, nhà cao cửa rộng, với một sự thay đổi thăng tiến mọi mặt vui vẻ như thế.

Một người buôn bán xưa kia chỉ là người bán rong ngoài đường, nay đã trở thành đại thương gia, có nhiều cửa hàng lớn, có nhiều dịch vụ làm ăn buôn bán; một sự thay đổi tiến bộ làm cho người ấy hãnh diện vui mừng.

Một người tu hành trước kia là Sa Di, sau hơn hai chục năm bây giờ đã là Thượng Tọa, cai quản một ngôi chùa; tất cả đều là thay đổi tiến bộ, vô thường mà vui chứ không khổ, không buồn chán; vô thường này là được thêm, khá hơn, tốt đẹp hơn; tuy nhiên trong cái vui này vẫn có cái cực, cái khổ, cái buồn lẫn lộn, tại sao thế?

Vì khi trồng cây phải mất công tưới chăm sóc nên cực, sửa xe phải kiếm tiền để có tiền trả công sửa nên kém vui. Làm nhà mới thay nhà cũ phải tốn nhiều tiền, vất vả trong mấy tháng trời mới xong, nhiều khi nghĩ “thà ở nhà cũ cho rồi, ham nhà mới cực qúa chịu không nổi, đã phóng lao phải theo lao, biết làm sao được”. Đứa bé ngày nào nay thành người trung niên đầy đủ như thế, nhưng có biết đâu rằng biết bao chịu đựng gian nan khổ cực thức khuya dậy sớm học hành chăm chỉ, bon chen thi tài thi sức tranh đua mới có được ngày nay. Người buôn bán lại càng khổ cực trăm bề, cực nhọc đêm ngày, mánh mung đủ cả mới có được như ngày nay; người tu hành cũng thế, phải thức khuya dậy sớm, chịu sự chỉ giáo của các bậc huynh trưởng, thầy dậy, nhiều người không hiểu thì cảm thấy khổ.

2-Tình trạng thay đổi xấu hơn:

Sự thay đổi xấu hơn, tồi tệ hơn, mà chúng ta gọi là tụt dốc không có phanh thắng, không có cách gì kìm giữ lại được, sư thay đổi ngoài sự kiểm soát của ta; những sự thay đổi này thường làm cho ta thất vọng, không vui; như cây đang được ăn qủa mỗi mùa biết bao nhiêu trái to lớn ngon ngọt, chỉ được một số năm Nay đã cằn cỗi không còn nhiều qủa, không còn to trái, không còn ngọt như xưa nữa, nên không còn phấn khởi, không còn ca ngợi cây ấy mà có một tí không vui.

Như cái xe mới sửa, đi không được bao lâu lại hư thứ khác không sử dụng được nữa, phải sửa nữa hoặc bằng cách mua xe mới thay thế. Do đó lòng chẳng được vui mà thấy thất vọng buồn lo; chạy đầu này đầu nọ để có tiền xây cất nhà mới, tốn của tốn công biết bao nhiêu, vừa ở được ít năm đã thấy nước sơn cũ đi, tường nứt, cánh cửa khép không được vì sức nặng của cửa làm cho trễ xuống v.v…, nên chẳng còn thấy vui với căn nhà nữa.

Đứa bé năm nào nay mới bốn năm chục đã thấy trên đầu có một vài sợi tóc bạc báo hiệu sắp sửa già; ấy thế mà còn phải làm việc cực khổ hơn nữa để lo cho gia đình, làm sao để được vững mạnh, dựng vợ gả chồng cho con cái v.v…nên rất là cực khổ từ thể xác lẫn tâm thần.

Người buôn bán đang thịnh vượng, rủi vì duyên cớ nào đó bị phá sản, gia tài tiêu tan, sự nghiệp bỗng chốc thành mây khói, thật là khổ; tất cả những sự thay đổi xấu tồi tệ hơn, đều gây cho ta cảm giác không vui không thích, buồn phiền khổ não.

3). Tại sao vô thường thì khổ?

1- Trường hợp điển hình:

Chúng ta nêu ra một trường hợp điển hình trong muôn nghìn trường hợp điển hình đã xảy ra trong xã hội:

Có một bà cụ, gia đình bình thường vừa đủ ăn, chỉ trong vòng mười năm từ 1997 đến 2007 có bốn người con chết và một người nằm liệt giường như sau: Người con trai trưởng đột nhiên bị tai nạn thảm khốc chết để lại một con trai bốn tuổi với người con dâu. Một năm sau người con gái lớn của bà cụ có chồng chết không con, về ở với bà cụ. Rồi người con dâu bị bệnh nan y, chạy thầy chạy thuốc, bệnh viện nhà thương đủ cả, nhưng rút cục hơn một năm đau ốm thì qua đời khi đứa cháu nội mới bảy tuổi côi cút không cha không mẹ. Sau lại có người con trai thứ mắc bệnh nan y trong ba năm thuốc thang thì chết để lại một đứa cháu nội bốn tuổi với người con dâu của người con thứ. Năm 2007, người con gái lớn nằm biệt giường phải đi lọc thận mỗi tuần ba lần! Làm sao có tiền trả nhà thương bác sĩ? Chỉ còn cách bán bớt tài sản chứ không còn cách nào khác, thật là một cảnh khổ trần gian, bà cụ nay đã gần 90 tuổi rồi, nếu không nghĩ đến vô thường và nhận chân cuộc đời, làm sao sống nổi?!

2- Đức Phật nói về vô thường:

Trong Tạp A Hàm, quyển 3 Kinh số 953, 955, 956 từ trang 387 đến 392 ghi: Một thời Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn vườn Cấp Cô Độc thuộc nước Xá Vệ, bấy giờ đức Phật bảo các Tỳ kheo:

Chúng sinh từ vô thủy xoay vần, không biết cội gốc của khổ, ví như trời mưa to, bong bóng vừa sinh liền diệt, như có người xoay bánh xe luân chuyển sáu đường, thường xoay chuyển không ngừng. Chúng sinh xoay vần trong sáu cõi cũng thế, hoặc Địa ngục, Ngạ qủy, Súc sinh, Thần, Trời, Người, luôn luôn chuyển đổi không ngừng; chúng sinh bị vô minh che lấp, bị ái dục buộc cổ từ vô thủy sinh tử tử sinh, sự sống, cái chết cứ thế xoay vần, chẳng biết cội gốc của khổ.

Tất cả “hành” (lời nói, ý nghĩ, việc làm) là vô thường, chẳng thường hằng, chẳng an định, là “pháp” (bản tính) biến đổi; vậy nên chán lià hành, ly hành, cầu giải thoát.

Thời xa xưa, núi Tỳ Phú La thuộc nước Xá Vệ này gọi là núi Trường Trúc, có dân cư ngụ dưới chân núi gọi là xóm Đề Di La, lúc ấy con người sống trung bình bốn vạn tuổi (cách nay khoảng bốn triệu năm); thời ấy có đức Phật hiệu Câu Lưu Tôn xuất hiệnthế gian, thuyết pháp, giáo hóa v.v… Nhưng sau tên gọi núi Trường Trúc đã biến mất, người dân, tên xóm Đề Di La cũng không còn, Phật Câu Lưu Tôn đã nhập Niết Bàn từ thuở ấy.

Thời sau đó, núi Tỳ Phú La này gọi là núi Bằng Ca, khi ấy nhân dân sống dưới chân núi gọi là ấp A Tỳ Ca, lúc ấy tuổi thọ con người trung bình ba vạn tuổi (cách nay khoảng ba triệu năm); thời ấy có đức Phật Câu Na Hàm xuất hiệnthế gian, diễn nói kinh pháp, chỉ bày rõ ràng v.v…Nhưng tên núi Bằng Ca đã biến mất, tên ấp A Tỳ Ca không còn, và nhân dân thuở ấy cũng đã chết từ lâu, đức Phật Câu Na Hàm cũng đã nhập Niết Bàn.

Sau nữa, cũng thời qúa khứ xa, núi Tỳ Phú La này gọi là núi Túc Ba La Thủ, dân cư ngụ dưới chân núi gọi là thôn Xích Mã, lúc ấy con người sống trung bình hai vạn tuổi (cách nay khoảng hai triệu năm). Thời ấy có đức Phật hiệu Ca Diếp xuất hiệnthế gian diễn thuyết giáo lý ban đầu, chặng giữa, sau cùng đều vi diệu thanh tịnh. Nhưng tên núi Túc Ma La Thủ đã không còn, người thôn Xích Mã đã biến mất từ lâu, đức Phật Ca Diếp cũng đã nhập Niết Bàn.

Ngày nay, núi này tên Tỳ Phú La đã đổi tên nhiều lần trải dài theo thời gian như thế, nhân dân quanh núi sinh sống được gọi là thành Vương Xá thuộc nước Ma Kiệt Đà. Tuổi thọ con người trung bình còn có một trăm tuổi (thời này có người sống tới 120. 130, 140). Người dân rồi cũng chết đi, Như Lai chẳng bao lâu cũng sẽ nhập Niết Bàn, mọi thứ đều biến đổi, vô thường cả; chẳng thường hằng, chẳng bình an, vì thế nên tu chán lià, ly dục, giải thoátcứu cánh chân thật; hãy suy nghĩ về vô thường, đem hết tâm nghĩ vô thường liền được đoạn tận ái dục, đoạn tận vô minh, kiêu mạn sẽ được dẹp hết, được giải thoát khỏi khổ.

3 - Khổ từ đâu phát sinh?

Tất cả con người mắc phải bệnh chấp, muốn cái gì mình ưa mình thích còn mãi mãi. Cái gì đẹp, cái gì hay, cái gì đem lại quyền lợi, hạnh phúc, lâu bền, cái gì có liên quan liên hệ tới ta, khi không còn nữa, mất đi, ta cảm thấy buồn khổ. Đây là lòng tham cái sở hữu của mình, nếu những sự mất mát như thế của người khác, ta có đau buồn không; cái xe của người khác hư, ta có buồn không, thân nhân của người khác chết, ta có buồn không? Chỉ những gì liên quan tới mình khi mất mới buồn, đó là do chấp ngã, chấp ta, chấp cái của ta, nên khi vô thường đến ta bị kéo lôi theo rồi đâm ra buồn khổ.

Đối với cơ thể con người cũng vậy, luôn luôn có sự thay đổi từ thân xác đến tâm thần. Mỗi phút mỗi giây các tế bào trong cơ thể tăng trưởng và chết đi không ngừng; khi lớn tuổi tế bào tăng trưởng ít đi, trong khi tế bào chết gia tăng, đó là vào thời kỳ suy tàn; khi ta nghe ai nói già liền phản đối không chịu, la mắng người nói là mình già, nhưng sự thực nó hiển hiện trên khuôn mặt dáng người, làm sao có thể chối cãi được với vô thường thay đổi; khi còn trẻ làm đủ thứ việc không thấy mệt, khi lớn tuổi, làm việc chút ít đã thở mệt, rồi tự trách sao yếu qúa như thế? Đâu biết mỗi ngày ta xích dần lại chỗ chết một tí, thế mà nghe nói đến chữ “chết” thì hoảng sợ, vì không hiểu thể xác luôn luôn biến đổi.

Ngay cả: tâm niệm, nhớ nghĩ cũng biến đổi sinh diệt liên tục không dừng trong mỗi giây phút; ý nghĩ này sinh ra rồi mất đi, tưởng nhớ khác hiện lên tiếp nối, sinh ra, mất đi như dòng nước chảy không cùng tận.

Mọi người cứ tưởng tâm niệm trước sau như một, nên thấy ai thay lòng đổi dạ, họ oán trách, giận hờn, phản kháng đủ điều; có biết đâu rằng hoàn cảnh, điều kiện thay đổi, nên tâm tính người chuyển đổi theo; không nên tin tưởng rằng dù ở hoàn cảnh nào, tâm tính người vẫn như xưa, đó là tin tưởng sai lầm, nên mới có khổ.

4). Làm sao vô thường đến ít khổ?

Nếu sáng suốt nhận định thân là thay đổi, vô thường, tâm tínhchuyển biến không ngừng, có mất mát, bệnh hoạn, già chết, cũng không có gì phải sợ phải buồn; lòng người có thay đổi, ta cũng không thấy có gì là lạ cả, như thế sẽ sống yên ổn.

Những ai đã từng xa lâu năm nơi chôn nhau cắt rốn, khi trở lại thăm quê cũ người xưa, đều sẽ thấy sự thay đổi không còn nhận ra đâu vào đâu cả; nếu không có người dẫn đường chỉ lối, chắc chắnđi lạc không nhiều thì ít. Vì tất cả đều thay đổi với thời gian, nhà cũ biến mất hoặc siêu vẹo điêu tàn, nhà mới cất lên, đường sá khác hẳn; người xưa đâu mất, người nay mới lớn lên, chẳng nhận ra ai, đó là sự biến đổi, vô thường vật chất.

Nếu cố bám víu vào những hình ảnh xưa kia, chúng ta sẽ buồn, nên hiểu rằng vạn vật đều đổi thay, chúng ta không còn cảm thấy lạc lõng và không còn buồn nữa.

Bản thân muôn vật: đều biến chuyển đổi mới, thấy rõ như vậy là thấy sự thật; nghĩ rằng mọi vật là nguyên vẹn không thay đổi là không đúng, là cố chấp; bởi vậy phải học hỏi, quán sát để thấy các sự vật đúng như thật của nó.

Mọi vật từ người vật đến cỏ cây đều có tăng trưởng, tốt đẹp rồi cằn cỗi. Mọi vật đều thay đổi, không có cái gì cố định bền vững mãi mãi, vì bản chất nó là vô thường, không có chủ thể của nó, tức là vô ngã, như thân người do lục đại là đất, nước, gió, lửa, không, thức hợp lại mà thành. Một trong những thứ đó biến hoại là thân ta biến hoại theo, không thể giữ lại được.

Thân ta mũi thở tim bóp, máu lưu thông, các tế bào, các bộ phận đều làm phận sự của nó, nếu chúng dừng lại là ta chết.

Ngay cả hệ thống mặt trời cũng đang làm nhiệm vụ của nó là quay theo giải ngân hà, các hành tinh quay quanh mặt trời, các mặt trăng quay quanh các hành tinh. Dù trái đất này vững chắc như thế, cũng không phải là nó trường tồn bất biến, tới một ngày nào đó, nó cũng phải theo luật vô thường là thành, trụ, hoại, diệt.

Nếu sáng suốt nhận định mọi sự ở đời đều là vô thường, ta sẽ ít buồn khổ.

5). Tóm kết đời vô thường:

Do biết vạn vật vô thường, nên chúng ta chấp nhận những đổi thay của cuộc đời, như vậy là người hiểu biết sự vật một cách chân thật. Đây là người có chính kiến, thấy rõ mọi sự việc do nhân duyên sinh nên có, hết nhân hết duyên nên phải diệt, nên là không. Chẳng có cái gì có thực thể bản chất riêng biệt của nó mà tồn tại được, thấy rõ như vậy, mọi sự đổi thay, chuyển biến, ta sẵn sàng chấp nhận, và như vậy không có sự bất mãn trước sự thay đổi, không bất mãn, không bực tức thì không đau khổ.

Sở dĩ chúng ta buồn khổ là vì sợ mất cái này, sợ mất cái kia, sợ thân này ốm đau, sợ thân này già xấu, sợ chết; biết mọi vật là đổi thay vô thường rồi, có mất, có bệnh, có già, có xấu, có chết, cũng là lẽ thường ở đời, có gì mà phải sợ, phải lo, phải buồn khổ? Mọi người đều chung cùng số phận của nghiệp báo, làm lành hưởng lành, làm ác chịu qủa dữ, có phải chỉ riêng ta đâu mà buồn khổ?

Cái hơn là ta biết được sự thực ở đời là vô thường như thế, biết có nhân có qủa, ta cố gắng làm những việc phúc đức để gieo trồng qủa lành; còn người không biết thì khác, họ sợ hãi khi thấy chung quanh họ biến đổi, nhất là thân thể họ biến đổi lại càng lo sợ bấn loạn tâm thần, nên càng sầu não buồn khổ hơn.

Toàn Không

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12232)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15355)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16650)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12252)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11518)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14312)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24661)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10726)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12526)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10432)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12384)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11694)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12081)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13040)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11487)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17487)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21477)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10709)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19324)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12456)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26099)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14422)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13759)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16889)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17636)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13176)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12559)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11649)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11656)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20520)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19042)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19646)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18730)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15095)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15084)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14026)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15552)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14589)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15899)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12912)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18491)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15810)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11119)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53744)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13036)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16610)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15463)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20002)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15606)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15392)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15195)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10425)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20432)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15547)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13085)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20285)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13331)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29054)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11758)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18368)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant