Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phổ Môn Giải Nghĩa

02 Tháng Sáu 201618:49(Xem: 14931)
Kinh Phổ Môn Giải Nghĩa
KINH PHỔ MÔN

GIẢI NGHĨA
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Quyển Thứ Bảy

Phẩm Thứ Hai Mươi Lăm:

 “Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn


Hán dịch:
 Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập

Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh

Giải nghĩa: Cư Sĩ Toàn Không

Kinh Phổ Môn Giải Nghĩa

 

GIẢI NGHĨA ĐỀ KINH:

 Để dễ hiểu, chúng ta phân biệt dùng chữ nghiêng đậm là lời kinh, chữ thẳng đứng để giải thích, chúng ta cùng theo dõi sau đây:

 

ĐỀ KINH:

 

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN.

 

GIẢI NGHĨA:

Quán là coi xét soi rọi vào tâm để nhận thức đối tượng như quán tưởng, chỉnh lý lại sửa đổi lại, Quan là chú ý xem, ý thức.

Thếthế gian, có nghĩa là sự vận động tương tục không ngừng của sự vật, ở đây nhằm chỉ bày sự tương tục của tâm tưởng con người, còn có nghĩa là bỏ đi, thay cho, cắt đi dãy đi cỏ hoang.

Âm là tiếng nói âm vang, là không rõ ràng như âm u tượng trưng của những sự không tốt lành.

Quán Thế Âm: Nghĩa là coi xét tiếng nói lời than của thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ Tát, ngài quán xét lắng nghe những lời kêu than của chúng sinh và khởi lòng từ bi thương xót cứu độ họ. Nghĩa thật là biểu trưng danh hiệu "Nhân cách hóa một phương pháp tu tập", là quán sát coi xét xa lià bỏ đi những khúc mắc, dính mắc, buồn phiền, những điều u tối trong tâm, ở đây có ý nghĩatu hành, quán xét dứt trừ những vọng tưởng trong tâm liên tiếp khởi lên.

Phổ là rộng khắp, Môn là cửa, Phổ Môn là cửa mở rộng cùng khắp thông suốt không giới hạn; cửa mở rộng cùng khắp này là cửa pháp rộng lớn thông suốt khắp tất cả, không giới hạn, tượng trưng cho Pháp Môn tu hành mà ai cũng có thể vào tu được cả.

*

*   *

GIẢI NGHĨA KINH VĂN:

KINH VĂN 1:

NHÂN DUYÊN TÊN QUÁN THẾ ÂM

Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?"
Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: "Thiện-nam-tử (3)! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.

Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát này được như vậy.

Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

GIẢI NGHĨA:

(1) Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: Vô tận là không cùng tận, vô lượng vô biên, Ýý nghĩ, suy nghĩ, tưởng nhớ, Bồ Tát là chỉ một vị Thánh trong Phật giáo Bắc truyền, nói cho đủ thì đó là «Bồ-đề tát-đỏa», chữ Phạn là Bodhisattva, dịch nghĩa là «Giác hữu tình»; chữ hữu tình là có khí huyết, chỉ chúng sanh. Bồ tát là một chúng sanh đã giác ngộ về “chỉ làm việc lành không làm việc ác”; Bồ Tát Vô Tận ý nghĩa là vị Bồ Tát đại diện tượng trưng cho chúng sinh có đủ các thứ suy nghĩ, có vô lượng tưởng nhớ muôn vàn sự việc.

 

(2) Trịch áo bày vai hữu: Chính là vai bên phải, để lộ bên vai phải là có ý nghĩa:

Thứ nhất: Theo phong tục của người Ấn, khi khí trời nóng nực, họ trật một bên vai áo để hơi nóng ở trong mình thoát ra.

Thứ hai: Hở vai bên phải là cách thức tỏ bày sự cung kính, cung kính bằng cả thân và tâm, một bên là tùy thuận thế tục, một bên là cầu pháp xuất thế nên biểu thị sự cung kính.

(3) Thiện-nam-tử: Thiện có nghĩa là không nghĩ không nói không làm việc ác, như không sát sinh trộm cướp tà dâm nói dối uống rượu; Thiện nam tử chính là người giữ đầy đủ 5 giới và làm nhiều điều thiện vậy.

     Khởi đầu Kinh Văn 1, Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Đức Phật rằng: “Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?Đức Phật trả lời rằng: “Nếu có vô schúng sanh bị các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh”, có nghĩa là nếu có vô số chúng sinh bị các khổ não mà một lòng chuyên niệm nhất tâm, quán sát suy ngẫm nguyên nhân gây ra sự khổ não, coi xét thấy các khổ não ấy là không thật, là giả, là huyển có.

     Rồi xa lià bỏ đi đoạn dứt các huyển khổ và nguyên nhân gây ra khổ ấy, lại chuyên làm các việc tốt lành, tránh làm các việc xấu ác để gây nhân tốt, thì những buồn phiền sẽ không còn hoành hành nữa, tức là được giải thoát khỏi các khổ não, vì thế cho nên Đức Phật nói câu: “tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát” là vậy.

Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này: Nghĩa là nếu người nào không nghĩ chuyện gì khác, thực hành chỉ một lòng nhất tâm niệm cho nhu nhuyễn (trì), nghiệm xét (Quán); rồi bỏ đi dứt trừ những sự tương tục của tâm tư vọng tưởng (Thế), xa lià những vọng tưởng, những điều u tối, những ràng buộc, những gì gọi là tiêu cực trong tâm (Âm).

     Khi đã quán chiếu tu luyện như thế được đầy đủ nhu nhuyễn rồi, thì sức dụng tự tính hiện và các khổ nạn được giải thoát, vì vậy Đức Phật nói: “thì dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát này được như vậy”, tại sao? Vì lửa tượng trưng cho sự sân giận hận thù ngút trời, khi tu luyện kiên cố, nghĩa là quán sát thấy rõ ràng sự sân hận là ung nhọt là gai nhọn, nó tai hại vô cùng, cần phải xa lià rời bỏ nó.

     Quán chiếu tư duy như thế rồi, vị ấy gạn lọc tâm để không còn một chút suy nghĩ tưởng nhớ về sân giận, thì những sân hận làm sao còn hiện hữu trong tâm, sự sân hận không còn thì làm gì còn lửa để hại vị ấy nữa. Bởi vậy mới nói là “do sức oai thần của Bồ Tát làm việc này mới được như vậy” đó. Chứ chẳng phải do Bồ Tát Quán Thế Âm dùng thần thông đến, dùng phép cứu nạn chúng sinh bị lửa đốt, khiến lửa không thể cháy mà lầm to và rơi vào mê tín từ bao lâu nay mà nhiều người không biết.

Nếu bị nước lớn làm trôi: Nước tượng trưng cho tham ái như nghe tiếng đàn ca du dương ủy mị, nghe lời nói ngọt ngào, giọng nói nịnh bợ tâng bốc, tâm thần dễ bị mê mẩn, bị cuốn trôi nhận chìm trong tham ái, từ đó dẫn đến khổ đau. Như nghe lời nịnh hót khiến bị lừa đảo, hậu qủa là đau khổ; tánh luyến ái này được ám chỉ như một hình thức bị cuốn trôi nhận chìm trong nước.

Nếu xưng danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn: Tại sao được vậy? Vì nếu tu hành tới mức, nghĩa là quán xét để thấy rõ những tham lam luyến ái như lưới bắt, như bẫy sập, như mồi nhử, như bả thơm ngon mà độc hại. Quán sát thấy như thế rồi thì không còn tham ái nữa mà xa lià chúng, rời bỏ chúng.

Như vậy sẽ không còn bị tham ái hành hạ đưa đến khổ đau mà được thoát khỏi những thứ ấy, ví như bị nước cuốn trôi nhận chìm mà được vào chỗ cạn vậy. Chứ chẳng phải bị nước cuốn trôi rồi cầu xin Quán Thế Âm đến cứu đâu mà lầm lẫn to lớn, vì như thế là rơi vào tin Thần quyền mê tín dị đoan nhảm nhí, sẽ bị Đức Phật quở là người u mê.

     Muốn khỏi bị những tai họa lửa nước thật sự, thì phải tu nhân tích đức bằng cách tu hạnh Bồ Tát là làm tất cả các việc lành, tránh làm tất cả các việc ác theo Giới luật cho người tu đạo Bồ Tát, gồm 6 Giới trọng và 28 Giới khinh. Nhưng còn phải hỏi người tu này có gây trọng tội trong các đời trước hay không.

      Nếu khôngtrọng tội nào đã gây, thì chẳng thể gặp qủa xấu tai họa, còn đã từng gây trọng tội ở những kiếp trước rồi thì khó mà thoát khỏi tai họa. Chỉ có điều là khi đã có sự tu hành thì hy vọng công đức tu hành này làm cho nghiệp ác kia khó hiển hiện ra, và như vậy là có tu có phúc lành vậy.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

Các thứ qúy như vàng, bạc, v.v… gọi là Thất Bảo, tượng trưng cho Thất Thánh Tài là tín, giới, văn, tàm quý, niệm, định, xả của người tu, nghĩa là người tu phải học hỏi Kinh Luận Luật của Phật rồi suy nghĩ điều phải điều trái, ghi nhớ không quên (Văn), khi đã suy nghiệm kỹ càng rồi thì phải tin tưởng hoàn toàn (Tín).

 

     Phải giữ luật nghi đầy đủ theo quy củ phần hành của hành giả (Giới), (Như Cư sĩ giữ 5 Giới, Bồ Tát tại gia 6 Giới trọng và 28 Giới khinh, Bồ Tát xuất gia 10 giới trọng và 48 Giới khinh, Tu sĩ nam 250 Giới, Tu sĩ nữ 348). Người tu phải biết tự xấu hổ và biết thẹn với người khi có lỗi (Tàm, Qúy), phải luôn luôn nhớ tu hành (Niệm), phải hành thiền và biết cách làm sao để định tâm (Định), và biết bỏ đi tất cả những gì dính mắc vào tâm (Xả).

 

Trong biển lớn tượng trưng cho trong cuộc đời, thuyền tượng trưng cho trong cộng đồng, một xã hội, một nước v.v…

Gió lớn tượng trưng cho Tám thứ gió trong cuộc sống bon chen là “Được Mất (thắng bại), Đúng Sai (phải trái), Vinh Nhục (hơn thua), Vui Buồn (sướng khổ)”. Tám thứ gió này nó là mồi bả của thế gian, nó luôn luôn hành hạ con người, làm cho con người bị cuốn trôi theo dòng đời, làm cho bị quay cuồng trong cuộc sống, khiến đầu óc con người trở thành điên đảo tối tăm, gây nên bao nhiêu phiền toái, tội ác, tạo nghiệp qủa phải sinh tử luân hồi vào các đường lành thì ít mà vào đường ác thì nhiều, không có ngày ra khỏi.

Nước Qủy La Sát tượng trưng tánh độc hại hung bạo tàn ác giết người. Nhẫn là khó nói ra lời.

 

Nếu trong ấy có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm thì các người đó đều được thoát nạn Qủy La Sát, nghĩa là trong số những người ấy dù chỉ có một người thôi, nói chi nhiều người, tu hành nghiêm chỉnh. Quán sát Tám thứ gió, suy xét tham sân si mạn v.v…, thấy chúng gây nên tánh độc hại hung bạo tàn ác giết hại là nguồn gốc của mọi đau khổ.

 

     Từ đó xa lià dứt bỏ những thứ này, thực hành Sáu độ là “Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn, Thiền định, Trí Tuệ”, thì sẽ tiến đến giải thoát. Được giải thoát rồi, người đó sẽ độ cho hết thảy các người khác, các người khác được gần người đã giải thoát nên học hỏi giáo phápthực hành theo thì sẽ đều được thoát khổ, do đó Đức Phật nói “các người đó đều được thoát nạn Qủy La Sát” là vậy.

 

    Chẳng phải đâu, nếu cho rằng khi đoàn người đông đảo đi tìm trân bảo trong biển lớn bị bão tố thổi thuyền trôi rạt vào đảo đầy qủy ăn thịt người. Rồi chỉ cần một người chẳng tu hành gì cả, vì sợ chết mà phải cầu nguyện niệm Quan Thế Âm hay cầu xin van nài vị Thần linh nào đó cứu nạn, mà mọi người trong đoàn ấy đều được thoát nạn, thì đây là lầm lẫn to lớn, cần phải tỉnh táo suy nghĩ quán sát sẽ thấy rõ được sự lầm lẫn tai hại này.

 

Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm: nghĩa là do nhân duyên quán xét Tám thứ gió và tham sân si mạn v.v…, nên thấy rõ chúng là nguyên nhân gây ra tánh độc hại hung bạo tàn ác giết hại. Vì thấy rõ ràng nó là nguyên nhân của đau khổ buồn phiền, nên quyết tâm xa lià dứt bỏ nó như vứt bỏ chiếc áo dơ bẩn rách nát hôi tanh và tu hành nghiêm chỉnh để giải thoát khỏi mọi ràng buộc của những xấu xa tai hại ấy, do đó Đức Phật nói: “Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.

 

(Còn tiếp)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37302)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28316)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28910)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27190)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34709)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27833)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33318)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28588)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30100)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25503)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51348)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26751)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28642)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24376)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27491)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31977)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30219)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27736)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35487)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27477)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31804)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24208)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23054)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26689)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28272)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29435)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33332)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21793)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20645)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22271)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 24019)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22883)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23243)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30452)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21804)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19294)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20187)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32773)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34050)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27799)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23854)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23246)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28218)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19240)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24636)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21460)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23890)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29463)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 31058)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25365)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20164)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 19056)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20183)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20075)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19436)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22606)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31163)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19738)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19722)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24032)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant