Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách

07 Tháng Bảy 202215:41(Xem: 2647)
Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách
Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách

HT. Thích Thiện Huệ

Những Điều Đức Phật Không Dạy Trong Kinh Sách

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài. Mà Ngài dạy: hãy tự làm hòn đảo cho chính mình, tự cứu lấy mình, tự mình thực hành và lấy Giáo Pháp làm thầy.

Đạo Phật đến để tự mình thấy, chớ không phải ai nói gì cũng tin.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy:

Phật tử vào chùa phải khép nép, làm gì cũng sợ mắc lỗi, răm rắp nghe theo vị Sư nào nói, hay phục tùng một cách mê muội, thiếu trí tuệ. Mà Ngài dạy: người Phật tử ngoài có niềm tin, còn phải trau dồi trí tuệ.

Ngài dạy:

1. Chớ vội tin vào truyền thuyết.
2. Chớ vội tin nếu là truyền thống.
3. Chớ vội tin nếu được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
4. Chớ vội tin nếu được ghi lại trong sách vỡ hay kinh điển.
5. Chớ vội tin nếu là lý luận siêu hình.
6. Chớ vội tin nếu phù hợp với lập trường của mình.
7. Chớ vội tin nếu phù hợp với định kiến của mình.
8. Chớ vội tin nếu điều đó căn cứ dữ liệu hời hợt.
9. Chớ vội tin nếu điều đó được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.

10. Chớ vội tin nếu điều đó được các nhà truyền giáođạo Sư tuyên thuyết.Nếu điều nào các bậc thiện chí dạy: việc nào bất thiện, việc nào đáng chê trách, bị người trí chỉ trích đưa đến bất hạnh, khổ đau thì hãy từ bỏ chúng (và ngược lại).

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Ngài có thể tha tội lỗi, ban ân huệ cho bất kỳ ai tin Ngài, hay trừng phạt những ai không tin Ngài. Mà Ngài dạy người làm thiện thì hưởng quả tốt đẹp, người làm ác thì chịu quả khổ đau. Vì đó chính là hành động của chúng tachúng ta phải chịu trách nhiệm với chính mình, chứ không thể cứ thoải mái làm việc xấu ác rồi cầu xin được tha thứ. Vì đó là quy luật tự nhiên, không chỉ dành riêng cho những ai tin Ngài, mà dành cả cho những ai không theo Ngài nữa.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Người Phật tử không được học Pháp, chia sẻ Pháp. Mà trái lại Ngài còn khuyến khích mọi người trau dồi trí tuệ bằng pháp học lẫn pháp hành để đẩy lùi mê tín dị đoantà kiếntham lamsân hậnngã mạnvô minh. Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy cầu an, cầu siêu cả. Mà Ngài chỉ dạy làm phước thiện, rồi chia phước cho những người đang sống (nhằm giúp họ biết tùy hỷ phước, giúp họ hiểu làm việc thiện là điều đúng đắn) và hồi hướng phước cho người đã mất (nhằm giúp họ biết nguồn gốc, công ơn người quá cố).

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phật tử vào chùa phải bố thícúng dườngcung kínhphục vụ Chư Tăng. Mà Ngài dạy tính ích kỷbỏn xẻn, bất kính, lười biếng là không tốt, cần diệt trừ. Dù bố thícúng dườngcung kínhphục vụ đó không nhất thiết chỉ dành cho Tăng, mà còn cho người khác. Vã lại xúc phạm người hiền trí, tức tấn công thành trì thiện phápđảo lộn trời đất. Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phụ nữ bị phân biệt, không có phước báu như đàn ông. Ví dụ không có kinh sách nào dạy khi đến tháng hành kinh, phụ nữ không được đi chùa, hay không được đứng trước tượng Phật. Mà Ngài dạy thân thể dù nam hay nữ, tất cả đều bất tịnh, được tạo bởi 32 uế trược như nhau. Ngài dạy Phụ nữ vẫn có thể được như nam giới, vẫn được học tập và thực hành trong giáo Pháp Đức Phật để có thể thực chứng bậc thánh nhân. Nhưng Ngài dạy có 5 điều khổ mà phụ nữ gánh chịu:

1. Khổ phải đến tháng hành kinh.
2. Khổ lúc trẻ về nhà chồng, không có người thân.
3. Khổ mang thai.
4. Khổ phải sanh con.
5. Khổ hầu hạ chồng.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Người cư sĩ tại gia (tức là không phải người xuất gia) không được đụng chạm vào hay học tập, nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Mà Ngài dạy giáo Pháp không chỉ dành cho người xuất giamà cả người tại gia. Mặc khác người tại gia phải giữ giới như:

1. Không sát sinh.
2. Không trộm cắp.
3. Không tà dâm.
4. Không nói láo.
5. Không uống rượu và các chất say.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy cư sĩ tại gia không được làm giàu.

Mà Ngài dạy cư sĩ phải làm ăn chân chính nhằm nuôi sống bản thân và gia đình.

Ngài dạy có 5 loại nghề cư sĩ không nên làm:

1. Buôn bán vũ khí.
2. Buôn bán người và động vật.
3. Buôn bán thịt.
4. Buôn bán rượu.
5. Buôn bán thuốc độc.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Người tu phải vào rừng sống ẩn cư, không được gần cư sĩ để dạy bảo. Mà Ngài dạy người tu phải giữ gìn giới luật, biết thu thúc lục căn ở bất kỳ nơi đâu.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải hành khổ hạnh hay lợi dưỡng. Mà Ngài dạy trung đạo, cần thoát khỏi 2 cực đoan trên.

Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cúng tế, đốt vàng mã, coi ngày giờ, mở cửa mã, phong thủy, xem sao, xem hạn, bói toán, bói số, đoán mộng, tiên toán vận mệnh,...Mà Ngài dạy Phật tử không nên mê tín dị đoan, các vị tu hành không được sống tà mạng bằng hình thức trên.

Đặc biệt Ngài dạy: đâu là Khổ, đâu là nguồn gốc của Khổ, đâu là diệt Khổ và đâu là con đường đi đến diệt KhổĐức Phật dạy mọi thứ đều vô thường, thay đổi, cuộc sống là tạm bợ, không có gì chắc chắn, không nên tham luyếnchấp ngã.

"Tự mình, làm điều ác;
Tự mình làm nhiễm ô.
Tự mình không làm ác;
Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình;
Không ai thanh tịnh ai".
(Kinh pháp cú: 165).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1382)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1292)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1347)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1574)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1718)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1679)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1065)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1551)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1548)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1718)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1984)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1585)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1404)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1415)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1595)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1188)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1315)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1335)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1737)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1692)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3086)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1877)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1408)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1248)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1336)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1461)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1355)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1955)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1731)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1940)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1869)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2432)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1826)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2187)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2295)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2360)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1892)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2021)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2077)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2021)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1991)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1941)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1994)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1954)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2216)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2366)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2057)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2176)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1940)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1973)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2469)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2374)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4121)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2538)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3262)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2513)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2095)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1836)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3351)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant