Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiết Thực Hiện Tại Qua Dụ Ngôn “lá Trong Bàn Tay Và Lá Trong Rừng”

26 Tháng Giêng 202309:25(Xem: 1910)
Thiết Thực Hiện Tại Qua Dụ Ngôn “lá Trong Bàn Tay Và Lá Trong Rừng”
Thiết Thực Hiện Tại Qua Dụ Ngôn “lá Trong Bàn Tay Và Lá Trong Rừng”

Thích Nữ
 Kiều Tuệ Quang


la bo de


Chân lý
 Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của sự vật cụ thể mà rất quen thuộc trong đời sống, khi nói ra ai cũng biết, nhằm lột tả những giá trị chân lý mà Ngài thuyết giảng, để giúp cho tất cả chúng ta dễ dàng hiểu sâu được chân lý đó. Vì thế, trong kinh điển có rất nhiều những dụ ngôn hay ngụ ngôn được Ngài mô tả để làm thí dụ, trong đó có dụ ngôn “Nắm lá trong tay và lá trong rừng”. Xuất xứ dụ ngôn này nằm trong Pali tạng, thuộc Kinh Tương Ưng bộ V, chương 12, phẩm Rừng Simsàpa; còn trong Hán tạng, thuộc Kinh Tạp A Hàm, Kinh 404. Thân Thứ.

Trong một buổi dừng chân tại rừng Simsàpa, thuộc nước Kosambi. Lúc đó, Đức Phật nhặt một nắm lá Simsàpa và hỏi các đệ tử: Nắm lá trong tay Ta nhiều hay ít hơn lá trong khu rừng này? Các Tỳ kheo đáp: Lá trong tay Thế Tôn ít rất nhiều lần so với lá trong khu rừng này.

Đức Phật nói: Đúng thế “Những gì Ta biết rõ bằng trí tuệ, giảng dạy dưới hình thức chân lý cho các thầy thật ra chỉ là những chiếc lá có trong lòng bàn tay thôi. Trong khi đó nguồn trí tuệ mà Ta biết, chứng ngộ, thấu hiểu nhiều như là những chiếc lá trong rừng này. Thế nhưng tại sao bao nhiêu năm qua Ta lại không thuyết giảng những điều ấy? Bởi vì những điều ấy chẳng liên quan gì đến mục đích, đến căn bản của đời sống Thánh thiện. Không đưa đến sự viễn ly tham áikết thúc sầu bi, hướng đến an tịnh và giải thoát” [1]. Do đó, khi Tôn giả Malunkyaputta hỏi Thế Tôn về những nghi vấn rằng: “Thế giới này là thường hay vô thườngthế giới là hữu biên hay vô biên, sinh mạng và thân này là một hay khác, Như Lai có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết,…” [2]. Thế Tôn đã không trả lời, bỏ qua một bên những điều ấy, những gì không phải là căn bản của phạm hạnhlợi ích khi quỹ thời gian kiếp người ngắn ngủi, thì Ngài không dành nhiều thời gian cho những vấn đề đó, mà Ngài dành thời gian cho những điều thiết yếu, giúp mọi người áp dụng chân lý đó mà sống hạnh phúc trong đời

Vì thế, khi hướng dẫn chân lý Đức Phật đã có sự chọn lọc những gì cần thuyết giảng, nhằm mang lại sự khai mở tri thức “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến” [3], hướng đến đạo đứcđạt được an vui; cũng như “Mục đích của Đạo Phật là diệt khổ và đem vui cho mọi loài; nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạc và hạnh phúc. Và chỉ có trí tuệ (paññā) mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoát và giác ngộ” [4]. Còn những nguồn trí thức hiểu biết khác Ngài không cần thiết phải nêu ra. Do đó, là người con Phật chúng ta nên học theo phong cách truyền bá của Đức Phật, cái gì thật sự có ích cho mọi ngườichúng ta nên tình nguyện không mệt mỏi để trở thành một truyền thông viên cho các giá trị đó “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường thuyết pháp vì hạnh phúc, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người.” [5].

Trong suốt 49 năm thuyết phápĐức Phật đã để lại 84.000 pháp môn tu, một con số ví von cho sự đa dạng vô cùng trong giáo huấn của Ngài. Như vậy, làm phép so sánh nhỏ, 84.000 pháp môn ấy chỉ là “Nắm lá trong tay”, trong khi đó nguồn tuệ giác mà Đức Phật khai thác được như là lá trong rừng, tỷ lệ đó lớn hơn gấp nhiều lần. Điều đó cho thấy, Đức Phật luôn ưu tiên nói những gì cần thiết, có lợi ích cho cuộc sống của con người. Do đó, ứng dụng vào cuộc sống, chúng ta cũng nên học theo cách của Đức Phật rằng đặt ra đâu là ưu tiên. Những gì cần phải đầu tư làm cho ưu tiên thì chúng ta không nên chần chừ, mà phải thực hiện việc đó ngay và luôn, đừng nên giống như một người bị bắn bởi mũi tên có tẩm độc. Bạn bè, bà con mời y sĩ đến trị thương nhưng người ấy nói: “Tôi sẽ không rút mũi tên ra nếu chưa biết rõ dòng tộc, tên họ, hình dáng, nơi ở của người bắn; tôi sẽ không rút mũi tên ra nếu chưa biết cung tên được làm bằng chất liệu và cấu tạo thế nào? Tẩm chất độc gì?…” [6]. Kết quả, người ấy sẽ chết mà vẫn không biết được gì. Vì thế, khi một người bị trúng tên, việc cần thiết là phải nhổ mũi tên ra khỏi cơ thể để tránh tử vong. Sau khi chữa lành vết thương rồi tìm hiểu về nguồn gốc của mũi tên đó cũng chẳng muộn gì.

Cho nên, cần ưu tiên cho những cái quan trọng bằng cách đổ dồn hết tâm sức của mình với phương pháp đúng, để chúng ta có cơ hội biến ước mơ trở thành hiện thực. Và trong khi làm việc, giao tiếp với xã hội phải biết chọn lọc những tinh hoa, cốt tủy như “Người vào trong rừng đem lõi cây về, chớ đừng đem cành cây, lá cây và vỏ cây” [7]. Thực hiện được như vậy, chúng ta sẽ được đánh giá cao và trở nên có giá trị trong cuộc sống. Vì thế, cái gì thật sự có lợi ích và mang lại những giá trị hướng đến sự hạnh phúcchấm dứt khổ đau thì cái đó được Đức Phật chọn lọc như là những chiếc “Lá nắm trong lòng bàn tay” khi Ngài thuyết pháp trong suốt 49 năm, với lời tuyên bố: “Này các Tỳ kheo, xưa cũng như nay Ta chỉ nói lên hai điều đó là khổ và sự diệt khổ” [8].

THỨ NHẤT

Sự khổ

Đây là thực tại mà chúng sinh hằng chịu khổ, với: Sinh, già, bệnh, chết liên hệ đến cơ thể, cũng bởi do vô minh mê muộitham lamluyến áiham muốn mà ra. Và con người nếu chưa tu hành cho đắc đạo thì còn khổ nữa. Bởi khổ còn có nhiều mối đem lại đó là: Tam khổLục khổBát khổ.

Tam khổ

1. Khổ khổCon người đang chịu hết sự khổ này đến sự khổ khác, nào là đói khát, tật bệnh, nào là thiên lai dịch bệnh,… cái khổ này kéo thêm cái khổ khác dài mãi, mà tấm thân phải ưu não không dứt.

2. Hoại khổ: Cái khổ này chỉ sự hư hoại, bởi người, vật mà mình ưa thích thì lần lần hư hoại mất đi, nhân đó mà mình cảm thấy khổ.

3. Hành khổ: Tức là nỗi khổ khi nhận ra vạn vật ở thế gian này chịu sự chi phối của vô thường, cứ chuyển dời biến đổi mãi, nên tâm sinh ra khổ não.

Lục khổ

Gồm: “Nhân khổ, quả khổ, cầu tài vị khổ, cần thủ hộ khổ, vô yếm túc khổ, biến hoại khổ” [9].

Bát khổ

Gồm: “Sinh, lão, bệnh, tử, thương yêu mà phải chia ly, ghét nhau mà phải hội ngộ, mong muốn mà không toại nguyện và chấp vào thân thể vật lý này là thường hằng” [10]. Đó là những khổ đau thuộc về tâm lý và thái độNgoài ra còn có những nỗi khổ niềm đau khác như: Sầu, bi, ưu, não tác động chi phối con người rất nhiều. Vì thế, Đức Thế Tôn có nhiệm vụ “Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối…” [11], giúp chúng ta thấy rõ và nhận diện đâu là nguyên nhân dẫn đến sự khổ và dạy chúng ta bản lĩnh để đối diện với sự khổ đó. Đó là bước thứ nhất mà trong giáo lý gọi là Khổ đế (Dukkha) trong Tứ Diệu Đế.

THỨ HAI

Xác định: Tâm tham lam, tâm giận dữ hận thù, tâm si mê thiếu hiểu biết, tâm cố chấp bảo thủ,… là những tâm khổ đau mà Đức Phật dạy chúng ta khoanh vùng, bằng cách truy tìm các nguyên nhân của nỗi khổ niềm đau. Bởi, trong cùng một hoàn cảnh, nhưng người này không sao còn người kia lại đau khổ, người khác giàu chúng ta lại nghèo, người này thành công người kia lại thất bại. Điều này, không thể đổ lỗi cho ông thần ông thánh hay ông thượng đế nào có thể ban phước giáng họa, mà tất cả đều theo quy luật nhân quả của nó, vì Đức Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều mang theo nghiệp (Kamma) của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa. Chính vì nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa các chúng sanh” [12]. Hiểu được như vậy, chúng ta sẽ có được niềm tin đúng với chánh pháp, mang lại sự tiến bộ và sự thành tựu trong cuộc sống, mà không phải rơi vào con đường lung lạc, mù quáng thiếu hiểu biết theo lối ‘Niềm tin’ của sự mê tín và dị đoan như: “Tin ông đồng bà cốt, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành tháng dữ, tin số mạng sang hèn, tin coi tay xem tướng, tin cúng sao giải hạn, tin có một người ban phước giáng họa,…” [13] làm ảnh hưởng xấu, dẫn đến sự bất ankhổ não. Vì thế, trong những hoàn cảnh đó, chúng ta nên chịu khó phân tích từng tình huống, thì chắc chắn rằng sẽ tìm ra được nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau khổ này. Đây là Tập đế (Samudaya).

THỨ BA

Dập tắt phiền nãođạt được đỉnh cao của sự hạnh phúcan lạc đó là Niết bàn (Nirvana/Nibbàna) bây giờ và tại đây mà không phải chờ sau khi qua đời. Vì Niết bàn không phải là cảnh giới Phật, cũng không phải là cõi Phật mà Niết bàn là trạng thái tâm thanh tịnh, khi mà toàn bộ khổ đau và nguyên nhân gây tạo ra sự khổ đau ấy đã kết thúc. Đó chính là Diệt đế (Nirodha).

THỨ TƯ

Thực tập con đường Bát Chánh Đạo gồm cóChánh kiến (Sammà Ditthi) và Chánh tư duy (Sammà Sankappa) (thuộc về trụ cột trí tuệ); Chánh ngữ (Sammà Vàcà), Chánh nghiệp (Sammà Kammanta), Chánh mạng (Sammà Ajivà), Chánh tinh tấn (Sammà Vàyàma) (thuộc về trụ cột đạo đức); Chánh niệm (Sammà Sati) và Chánh định (Sammà Samàthi) (thuộc về trụ cột thiền định). Đó là Đạo đế (Magga).

Đây là bài kinh thứ 2 sau bài Kinh Chuyển Pháp LuânĐức Phật nói về tính thực tiễn trong chân lý cho 5 vị trước kia cùng tu khổ hạnh với Ngài, rằng: Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ và tìm ra con đường diệt khổ một cách nhanh chóng không vòng vo, không dài dòng, không lan man như người trúng mũi tên độc kia. Cho nên, Đức Phật hiếm khi dành nhiều thời gian cho những vấn đề đó, mà Ngài chỉ rõ khổ đau và con đường chấm dứt sự khổ đau đó để đi đến hạnh phúc Niết bàn, đây chính là trọng tâm của chân lý Phật, hễ ai đi đúng con đường đó thì kết quả hạnh phúc sẽ có mặt. Vì thế, những điều Thế Tôn dạy như nắm lá trong bàn tay tuy ít nhưng là chìa khóa để mở cửa kho tàng tuệ giác của lá cây trong rừng, cũng như tháo mắt xích của Mười hai nhân duyên: “Vô Minh diệt, các Hành diệt, do các Hành diệt Danh Sắc diệt, do Danh Sắc diệt Lục nhập diệt,….” [14] tháo gỡ được một cái thì những mắt xích khác cũng sẽ ra, hay “Cái này có mặt nên cái kia có mặt; do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt; do cái này sanh nên cái kia sanh; do cái này diệt nên cái kia diệt” [15]. Cho nên, chỉ cần khảo sát tường tận một phần nắm lá ấy, tự khắc chúng ta sẽ hiểu được bản chất của toàn bộ lá cây trong rừng mà thôi.

Vì thế, dụ ngôn lá trong tay, xác định về chủ trưởng thiết thực hiện tại của Đức Phật. Đây là dụ ngôn nói về tính thực tiễn cuộc sống, đó là bài học về sự khổ, nguyên nhân mang lại khổ và làm thế nào để chấm dứt sự khổ.

Tóm lại, nắm lá Simsàpa trong bàn tay là những điều liên hệ đến mục đích giải thoát, là căn bản cho phạm hạnh, đưa đến ly thaman tịnh, thắng trí, giác ngộ và niết bàn. Cho nên, những gì căn bản và cần thiết nhất cho một đời người ngắn ngủi thì Đức Phật thuyết giảng, nhằm giúp chúng sinh vượt thoát khổ đau để sống an lạchạnh phúc. Vì thế, dụ ngôn lá trong tay, xác định về chủ trương thiết thực hiện tại của Đức Phật. Đây là dụ ngôn nói về tính thực tiễn cuộc sống, đó là bài học về sự khổ, nguyên nhân mang lại khổ và làm thế nào để chấm dứt sự khổ. Thực hiện đúng theo phương pháp mà Đức Phật đã dạy như thế, thì chắc chắn rằng khổ đau sẽ chấm dứt và chỉ còn lại sự an lạc hạnh phúc luôn luôn có mặt với chúng ta ngay trong cuộc sống hiện tại này, mà trong nhà Phật thường hay gọi với tên “Hiện tại lạc trú” là đây.

NCS.Thích Nữ Kiều Tuệ Quang

 

Chú thích:

* NCS SC. Thích Nữ Kiều Tuệ QuangNghiên cứu sinh Tiến Sĩ khóa II, Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh.

[1] Kinh Tương Ưng bộ V, Chương 12, Phẩm Rừng Simsàpa, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1993, tr.635.

[2] Trung Bộ II, Tiểu Kinh Malunkya, số 63, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1992, tr.193.

[3] Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, HT. Thích Trí Tịnh dịch, 2007, Nxb. Tôn giáo, tr.66.

[4] Thích Minh Châu (2012), Trí Tuệ Trong Đạo Phật, Trích Hãy Tự Thắp Đuốc Lên Mà Đi, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr.70.

[5] Trường Bộ I, Kinh Đại BổnĐại tạng kinh Việt Nam, VNCPHVN ấn hành, 1991, tr.502. 

[6] Trung Bộ II, Tiểu Kinh Màlunkyà, số 63, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1992, tr.193.

[7] Trung Bộ I, Đại Kinh Thí Dụ Lõi Cây (Mahasaropamasuttam), số 29, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1992.

[8] Trung Bộ I, Kinh Ví Dụ Con Rắn (Alagaddùpama sutta), số 22, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1992, tr.140.

[9] Nguyên Huệ dịch, Luận Du Già Sư Địa, quyển 44, Địa thứ 15: Địa Bồ Tát (phần bản địa), 2013, Nxb. Hồng Đức.

[10] Kinh Tương Ưng V, Thiên Đại Phẩm, Chương 12, Phẩm Chuyển Pháp Luân, HT. Thích Minh Châu dịch.

[11] Kinh Tương Ưng I, Chương VII: Tương Ưng Bà La Môn, Phẩm A-la-hán Thứ Nhất, HT. Thích Minh Châu dịch, tr.156.

[12] Narada Maha Thera, Đức Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh dịch, (2013), Nxb. Tổng hợp, TP.HCM, tr.157.

[13] Di Giáo Kinh [ Kinh Lời Dạy Cuối Cùng], Phần Dịch nghĩa: Phần Chánh tông, (2010), Đoàn Trung Còn – Nguyễn Minh Tiến việt dịch và chú giải, Nxb. Tôn giáo, tr.30.

[14] Trung Bộ Kinh III, 115. Kinh Đa Giới (Bahudhàtuka sutta), phần Duyên khởi, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1992.

[15] Kinh Tiểu Bộ 1, Kinh Phật Tự Thuyết Hay “Lời Cảm Hứng”, Chương 1: Phẩm Bồ Đề, HT. Thích Minh Châu dịch, (1999), TP. Hồ Chí Minh, tr.115.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1337)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1374)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1074)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1246)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1723)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1654)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1554)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1135)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1510)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1482)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1395)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1441)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1776)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2128)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1493)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1148)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1493)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2160)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1533)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1615)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1459)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 3073)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1448)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1461)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1783)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1755)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1692)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1545)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2712)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1670)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1663)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1478)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1496)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1670)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1608)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1488)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1481)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1557)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2256)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1591)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1571)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1703)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1582)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1453)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1707)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1471)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1781)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2451)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1519)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 2019)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1744)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1814)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1674)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1999)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1729)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1499)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1771)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1629)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1602)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1389)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant