Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Suy Nghĩ Về Tượng Pháp Của Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di Ở Việt Nam Hiện Nay

21 Tháng Mười 202319:26(Xem: 1362)
Vài Suy Nghĩ Về Tượng Pháp Của Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di Ở Việt Nam Hiện Nay

Vài Suy Nghĩ Về Tượng Pháp Của
Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di Ở Việt Nam Hiện Nay

Chúc Phú

 sen



Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayāquá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia sau khi vua Tịnh Phạn băng hà. Đây là sự thật được xác tín bởi nhiều nguồn tư liệu lịch sử. Với cái nhìn sơ khởi, có thể thấy Di mẫuMahāpajāpatī Gotami xuất gia khi đã lớn tuổi. Có lẽ do chưa nắm bắt đầy đủ về yếu tố này cũng như các điều kiện đặc hữu của Di mẫu mà nhiều họa sĩ, điêu khắcgia đã phóng tác nên những tôn tượng được định danh là Di mẫu Kiều-đàm-di nhưng chỉ dựa trên cảm xúc nghệ thuật mà không dựa trên cơ sở lý luận.

Bài viết ngắn này cố gắng phác thảo vài nét về chân dung của Di mẫu Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di dựa trênnhững cứ liệu kinh điển khả tín. Qua đó, cung cấp một số dữ kiện quan trọng để các nhà tạo tượng có thêm cơ sở để thể hiện gần đúng về tôn dung của một bậc khai tổ của Ni chúng.

1. Vài nét về lịch sử và chân dung Di mẫu Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di


Về tên gọi, kinh điển Pāli đều thống nhất ghi là Mahāpajāpatī Gotami, tuy nhiên ở Hán tạng thì tên của bà được thể hiện rất đa dạng, vì có khi được dịch nghĩa, có lúc được dịch âm, như: Kiều-đàm-di (憍曇彌), Ma-ha Ba-xà-ba-đề (摩訶波闍波提), Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌), Đại Ái ĐạoCù-đàm-di (大愛道瞿曇彌), Đại Ái Đạo (大愛道), Đại Thắng Sanh Chủ (大勝生主), Đại Sanh Chủ (大生主)… Trong những danh xưng này thì tên gọi Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌) có lẽ sát với nguyên tác Pāli: Mahāpajāpatī Gotami.

Theo Ký sự về các Trưởng lão Ni (Therī Apadāna), thuộc tác phẩm Thánh nhân ký sự (Apadāna), Di mẫu sinh ra ở thành phố Devadaha, cha tên là Añjana, thuộc dòng Sākya, mẹ tên là Sulakkhaṇā[1]. Như vậy, Di mẫu vốn xuất thân từ hoàng gia, sống với phong cách của hoàng gia.

Có một sự kiện được kinh Cù-đàm-di kinh (瞿曇彌經) thuộc Trung A-hàm ghi nhận về khả năng dệt vải và may vá của Di mẫu.

 Kinh ghi:

Bấy giờ, Ma-ha-ba-xà-ba-đề Cù-đàm-di đem một chiếc mới màu vàng, được dệt bằng kim tuyến đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi sang một bên và thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con đã tự tay cắt may chiếc mới màu vàng dệt bằng kim tuyến này cho Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn thương con mà thọ nhận.

Đức Thế Tôn bảo:

- Này Cù-đàm-di, hãy đem này cúng dường cho chúng Tỳ-kheo. Dâng cúng cho chúng Tỳ-kheo là đã cúng dường Như Lai, cũng là cúng dường đại chúng.

Đại Sinh Chủ Cù-đàm-di lại thưa đến lần thứ ba:

- Bạch Thế Tôn! Con đã tự tay cắt may chiếc mới màu vàng dệt bằng kim tuyến này cho Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn thương con mà thọ nhận.

Đức Thế Tôn cũng ba lần bảo:

- Này Cù-đàm-di, hãy đem này cúng dường cho chúng Tỳ-kheo. Dâng cúng cho chúng Tỳ-kheo là đã cúng dường Như Lai, cũng là cúng dường đại chúng[2].

Chi tiết này đã phần cho cho thấy, Di mẫu là người có khả năng lao động, tháo vát.

Kế đến, theo Tiểu phẩm (Culla Vagga), sau khi cầu thỉnh Đức Phật xin được xuất gia tại quê nhàKapilavatthu nhưng bị từ chối, Di mẫu đã đi bộ một khoảng đường rất dài để đến Vesālī. Luật ghi:

Sau đó, Đức Thế Tôn khi đã ngự tại thành Kapilavatthu theo như ý thích đã ra đi du hành đi về phía thành Vesālī. Trong khi tuần du hành, Ngài đã ngự đến thành Vesālī. Tại nơi đó, trong thành Vesālī, Đức Thế Tôn ngự tại Mahāvana (Đại Lâm), giảng đường Kūṭāgāra.

Khi ấy, bà Mahāpajāpati Gotamī đã nhờ người cạo tóc, khoác y phục màu ca-sa cùng với nhiều người nữ dòng Sākya đã ra đi về hướng thành Vesālī, tuần tự đã đi đến thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Khi ấy, bà Mahāpajāpati Gotamī với hai bàn chân sưng vù, thân hình phủ đầy bụi bặm, khổ sở, buồn rầu, mặt mày ủ dột, đang đứng khóc lóc ở bên ngoài cổng ra vào[3].

Có thể thấy, khoảng cách từ Kapilavatthu đến Vesālī rất xa. Theo tính toán của bản đồ google ngày nay thì khoảng cách đó hơn bốn trăm km. Vào thời Phật, quãng đường đó có thể dài hơn. Chi tiếtbàn chân sưng vù phần nào cho thấy sự vất vả của hành trình này. Ở đây, Tiểu phẩm đã cung cấpthêm một dữ liệu cho thấy sức khỏe và khả năng đi bộ của Di mẫuđặc biệt, đây là lúc Di mẫu đã nhiều tuổi. Vậy thực tế, lúc xuất gia thì Di mẫu khoảng bao nhiêu tuổi?

 Theo Ký sự về các Trưởng lão Ni (Therī apadāna), Di mẫu tự thuật rằng, mình thọ một trăm hai mươi tuổi:

- Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đây đã được một trăm hai mươi tuổi tính từ lúc sinh. Bạch đấng Anh Hùng, chừng ấy là vừa đủ. Bạch đấng Lãnh Đạo, con sẽ Niết-bàn[4].

Nếu căn cứ vào niên đại thành lập Ni đoàn, tức vào năm thứ năm sau khi Phật thành đạo[5], cộng với số tuổi của Di mẫu, điều đó đã tỏ xác tín rằng: Nếu cho rằng Đức Phật trải qua bốn mươi lăm năm giáo hóa, theo quan điểm Nam truyền, thì lúc xuất giaDi mẫu đã tám mươi tuổi; nếu cho rằng đức Phật trải qua bốn mươi chín năm giáo hóa theo quan điểm Bắc truyền, thì khi ấy Di mẫu đã bảy mươi sáu tuổi.

Trong thời Đức Phật, đã có nhiều cá nhân sống đến một trăm hai mươi tuổi được kinh điển ghi nhậngồm có các trường hợp như: Phạm chí Tu-bạt (須跋)[6], mẹ của vua Ba-tư-nặc[7], trưởng giảNa-câu-la (那拘羅)[8], ngọai đạo Thương Chủ (商主)[9]… Thế nên Di mẫu thọ đến mức đó cũng có cơ sở.

Từ những dữ liệu được nêu dẫn trên, có thể tóm tắt rằng:

Thứ nhất, Mahāpajāpatī Gotami được sinh ra và lớn lên trong cung của dòng họ Thích, đời sốngvà sinh hoạt mang phong cách hoàng gia.

Thứ hai, bà là một phụ nữ đảm đang, đã thành công trong việc nuôi dưỡng Thái tử Tất-đạt-đa, có khả năng lao động tay chân và có sức khỏe rất tốt.

Thứ ba, vào lúc xuất gia Di mẫu khoảng từ bảy mươi sáu cho đến tám mươi tuổi.

2. Thực tế tượng pháp của Di mẫu Mahāpajāpatī Gotami và những đề nghị ban đầu
Trong khoảng vài thập niên trở lại đây, do nhu cầu của chư Ni và sự thỉnh cầu của quần chúng Phật tử, một số cơ sở chuyên về tượng thờ như Zen Art, Thiên Phú Thạo, Tượng Phật Thanh Phong,  Tượng Phật Trần Gia… đã thiết kế tôn tượng tôn Ni Kiều-đàm-di. Ở đây, tùy theo quan điểm nghệ thuật của từng cơ sở, thậm chí kể cả quan điểm của chủ đầu tư mà đã có những tôn tượng của Di mẫu Kiều-đàm-di được thể hiện với nhiều phong cách khác nhau. Nếu như không có sự thuyết minh của người thực hiện thì khó có thể xác định đây là tôn tượngcủa Di mẫu Kiều-đàm-di vì không có bất kỳ một tiêu chí đặc thù nào dùng để xác định.

Trong khi đó, với tượng Phật Thích Ca thì khác, những đặc tướng riêng có như Nhục kế, tóc xoắn thành hình trôn ốc, phong cách Đại trượng phu(Mahapurisa)… dường như là những tiêu chí cố định để xác định đó là tượng Phật. Trong quá trình khai quật từ những di chỉ Phật giáo ở Mathura tại Ấn Độ hay Gandhara ở Pakistan, nhờ những đặc tướng riêng biệt này mà các nhà nghiên cứu mới có thể xác định được đâu là tượng Phật, đâu là tượng của các bậc Thánh.

Từ kinh nghiệm thực tiễn gần nhất là việc thể hiện tôn tượng Bồ-tát Thích Quảng Đức của UBND. Thành phố Hồ Chí Minh và Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2007. Từ cuộc thi sáng tác mẫu tượng đài Bồ-tát Thích Quảng ĐứcHội đồng Nghệ thuật TP.HCM đã chọn được mẫu tượng đài của điêu khắc gia Võ Công Thắng và đã thực hiện thành công tại Công viên Bồ-tát Thích Quảng Đức, ở địa chỉ 72-74 đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 3. Tượng đài đã được khánh thành vào ngày 18.9.2010.

Từ kinh nghiệm này, nên chăng chư tôn đức Ni trong Phân ban Ni giới Trung ương kết hợp với Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Trường Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh và những nhà họa sĩ, điêu khắc có tâm huyết với Phật giáo, đứng ra tổ chức một cuộc thi về tôn tượng Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (Mahāpajāpatī Gotami). Từ cơ sở đó, sẽ định hình nên những tiêu chí nghệ thuật đặc thù của tôn dung Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌, Mahāpajāpatī Gotami).

 Mặt khác, ngay như tên gọi của Di mẫuthể hiện trong những văn bản hành chánh và biểu ngữ lễ hội liên quan đến Di mẫucần phải ghi đầy đủ và thống nhất là Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌). Vì lẽ, nếu như chỉ ghi là Kiều-đàm-di (憍曇彌), tức chỉ mới đề cập đến họ của Di mẫu, vì trong thực tế có nhiều bậc tôn Ni trong dòng họ Thích cũng được ghi là Kiều-đàm-di (憍曇彌) như Xí-xá Kiều-đàm-di (翅舍憍曇彌)[10], Cát-ly-xá Cù-đàm-di (吉離舍瞿曇彌, Kisa Gotami Kisā-gotamī Kisā-gotamī Kisā-gotamī)[11], Sấu Cù-đàm-di (瘦瞿曇彌)[12]…

3. Kết luận


Tượng pháp, nhất là tượng pháp của những tôn giáo lớn là điều quan trọng, cao quý và thiêng liêngvà có tính thống nhất trong sự đa dạng. Đối với mỗi nghệ sĩ, tùy theo quan điểm nghệ thuật và năng lực của mình đã tạo nên những bức tượng tôn giáo với nét đẹp lay động lòng người. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó vẫn có những đặc điểm chung nhất, mang tính biểu trưng, tùy thuộc vào từng thể loại tượng pháp. Các bộ tượng pháp về Đức Phật Thích CaĐức Phật Di Đà, Bồ-tát Quán Thế ÂmTổ sư Đạt-ma… dù thể hiện trên nhiều chất liệu nhưng vẫn tuân thủ theo những quy cách vốn có để giới Phật giáo nói chung dễ dàng nhận diện.

Do vậy, đối với tôn tượng Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌), nếu như có sự quan tâm đúng mức ngay từ bây giờ của chư tôn đức hữu quan, tất sẽ tạo nên một mô thức có tính chuẩn mực về tượng pháp, không những cống hiến cho Ni giới Phật Việt Nam nói chung mà còn cho toàn thể Ni chúng trên toàn thể giới.



[1] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tập 9, Kinh Tiểu bộ, tập 5, Thánh nhân ký sự, Indacanda, dịch. NXB.Hồng Đức, 2021,  tr.555.

[2] Nguyên tác: Cù-đàm-di kinh 瞿曇彌經 (T.01. 0026.180. 0721c25-0722a04). Nguyên tác: 爾時,摩訶簸邏闍鉢提瞿曇彌持新金縷黃色衣往詣佛所,稽首佛足,却住一面,白曰:世尊!此新金縷黃色衣我自為世尊作,慈愍我故,願垂納受. 世尊告曰: 瞿曇彌! 持此衣施比丘眾,施比丘眾已,便供養我,亦供養眾.大生主瞿曇彌至再三白曰:世尊!此新金縷黃色衣我自為世尊作,慈愍我故,願垂納受.世尊亦至再三告曰:瞿曇彌!持此衣施比丘眾,施比丘眾已,便供養我,亦供養眾.  Tham chiếuPhân biệtbố thí kinh 分別布施經 (T.01. 0084. 903b23); M.142, Dakkhiṇāvibhaṅga Sutta (Kinh Phân biệt cúng dường).

[3] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tập 11, Hợp phần và Tập yếu, Indacanda dịch, NXB.Tổng Hợp TP.HCM. 2022, tr.903.

[4] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tập 9, Kinh Tiểu bộ, tập 5, Thánh nhân ký sự, Indacanda, dịch. NXB.Hồng Đức, 2021, tr.553. Nguyên tác Pāli: 319. “Sā vīsaṃvassasatikājātiyāhaṃ mahāmune, alamettāvatā vīra nibbāyissāmi nāyaka.”

[5] Theo, Nārada, Mahā Thera, Đức Phật và Phật pháp, Phạm Kim Khánh dịch, NXB.Tổng Hợp TP. HCM, 2019, tr.128.

[6] Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.2. 0025a01).

[7] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt nam, tập 3, Kinh Tương ưng bộ, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Hồng Đức, 2020, tr.116.

[8] Tạp. 雜 (T.02. 0099.107. 033a06).

[9] Tạp. 雜 (T.02. 0099.978. 0253a26).

[10] Biệt Tạp, 別雜 (T.02. 0100. 216. 0454a18).

[11] Tạp, 雜 (T.02. 0099. 276).

[12] Đại bát niết-bàn kinh大般涅槃經 (T.12. 0375.24. 0764b12).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3312)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4697)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3554)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7400)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4579)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4617)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7439)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 3032)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12382)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4041)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3862)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4294)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3749)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5121)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6804)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4069)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4197)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5433)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3874)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4623)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3620)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 4014)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4475)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5473)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3915)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 4007)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3937)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4897)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4570)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4329)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3921)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4729)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4277)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6199)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4653)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 5012)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4258)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4913)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5757)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3751)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4106)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4661)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5358)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3205)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4832)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4632)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4366)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4806)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4589)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4673)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7330)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5292)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5080)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4673)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5684)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5357)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4239)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6089)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4792)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4937)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant