Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược ý truyền thống diễu hành xe hoa trong đại lễ Phật Đản Phật giáo Bắc truyền

14 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13356)
Lược ý truyền thống diễu hành xe hoa trong đại lễ Phật Đản Phật giáo Bắc truyền

LƯỢC Ý TRUYỀN THỐNG DIỄU HÀNH XE HOA
TRONG ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN
Thích Tâm Mãn

Khi những hạt mưa đầu mùa bắt đầu tí tách, con ve gọi hè bổng náo nức râm rang, những giọt xuân cuối cùng sắp sang, nhường chổ cho hạ về ngập tràn nắng sáng, cũng là lúc người con Phật ở khắp nơi trên thế giới, lại một lần nữa cung kính chào mừng ngày đại lễ Đức Phật Đản Sanh.

blankHơn 2500 năm đã trôi qua, trong quá khứ cũng như hiện tại, nếu là người con Phật ai cũng thấy trong lòng nao nức, ai cũng muốn đem hết những gì mình có và có thể làm được, để trang nghiêm đại lễ, để cúng dường ngày Phật Đản Sanh và nghi thức diễu hành xe hoa trong ngày Đại Lễ Phật Đản của Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ tâm nguyện này.

Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương. Ngày xưa nghi thức này được gọi là “Hành Tượng” có nghĩa là dùng xe được trang sức bằng châu báu, chở tượng Phật đi nhiễu khắp phố phường nhân lễ Phật Đản. Trong sách Đại Tống Tăng Sử Lược chép: “Hành Tượng là do từ khi Phật nhập Niết Bàn, nhiều vị Vua cũng như đại thần, buồn vì mình không đủ duyên để được thấy Phật, cho nên tạo tượng Phật Đản Sanh, hoặc là tượng Thái Tử, để lên xe đưa đi tuần du khắp thành để chiêm ngưỡng”. Đây là khởi nguyên của nghi thức hành tượng trong Phật Giáo.

Vào thế kỷ thứ 5 khi ngài Pháp Hiển đến Ấn Độ, lúc bấy giờ ở Tây Vực cũng như Ấn Độ nghi thức hành tượng rất thịnh hành và Ngài Pháp Hiển đã từng xem nghi thức này. Trong sách Pháp Hiển Truyện chép: “Pháp Hiển cùng đoàn của ngài muốn xem nghi thức hành tượng, tháng ba thì đến nước Vu Điền, ở trong một ngôi chùa lớn của nước ấy, trong nước đó có 14 ngôi Đại Già Lam, còn các ngôi chùa nhỏ thì nhiều vô kể. Đến ngày mồng 1 tháng 4, tất cả những đường lớn nhỏ trong thành đều được quét dọn tưới nước sạch sẽ, trên cổng thành giăng màng trướng gấm vóc, treo đèn kết hoa.

Vua cùng phu nhân, cung nữ đến cổng thành, trước tiên thỉnh ngài Diệu Ma Đế là vị Tăng tinh thông Đại Thừa học, được vua kính trọng, đi đầu đoàn xe hoa chở tượng Phật. Cách cổng thành khoảng ba, bốn dặm làm chiếc xe voi bốn bánh, cao hơn ba trượng, có hình dáng như một cung điện, trang sức bằng bảy thứ báu, treo các thứ tràng phang bảo cái, tượng Phật được đặt ở giữa xe, có hai vị Bồ Tát hầu ở hai bên và rất nhiều hình tượng của chư thiên chúng, đều chạm trỗ bằng vàng bạc, treo trên hư không, khi xe báu chở tượng Phật đến còn cách cổng thành khoảng chừng 100 bước, Vua cởi mão, mặc đồ mới, bưng các thứ hương hoa, dẫn đoàn tùy tùng xếp thành hai hàng, ra ngoài nghinh đón, tung hoa đốt hương, cuối đầu đảnh lễ.

Khi xe chở tượng Phật vào thành, Phu nhân cùng cung nữ từ trên cổng thành rãi hoa cúng dường. Mỗi ngôi chùa trong thành đều có một xe hoa chở tượng Phật, các đồ trang sức trang nghiêm trên mỗi xe đều khác nhau. Mỗi ngày là một chùa tổ chức nghi thức hành tượng, từ ngày mồng 1 cho đến ngày 14 thì kết thúc, khi kết thúc lễ hành tượng rồi thì nhà vua cùng phu nhân mới hồi cung.”

Thế kỷ thứ 7 Ngài Huyền Trang đến Ấn Độ cũng từng chứng kiến nghi thức diễu hành xe hoa trong đại lễ của Phật Giáo. Trong sách Đại Đường Tây Vực Ký quyển 1 Nước Khuất Chi chép: “Cổng thành lớn phía tây, hai bên đường đều có tượng Phật đứng, cao hơn sáu bảy thước...Trong các ngôi Già Lam, chư Tăng dùng các thứ châu báu trang nghiêm tượng Phật, dùng các thứ gấm vóc lụa là trang trí xe hoa, để thỉnh tượng Phật đi diễu hành...".

Phật Giáo cuối thế kỷ thứ 1 đầu thế kỷ 2 theo con đường tơ lụa truyền vào Trung nguyên, theo đường trên biển truyền vào Việt Namnghi thức Hành Tượng được truyền vào Việt Nam rất sớm, trong sách Ngô Chí có đoạn chép: “…ở Giao Châu…khi ra đường người ta thường nghe tiếng kiểng, lẫn tiếng trống kèn những người rợ Hồ (chỉ các vị Tăng và Phật tử người Ấn) đi theo thắp hương hai bên có từng đoàn xe có mười người..”.

Tại Trung Quốc nghi thức Hành Tượng (diễu hành xe hoa) cũng được truyền vào và rất thịnh hành, trong sách Ngụy Thư. Thích Lão Chí chép: “năm 424 Khi vua Thế tổ mới kế vị, làm lễ tôn phong cho vua Thái Tổ và Thái Tông, vào ngày mồng 8 tháng 4, khi xe hoa chở tượng Phật của các chùa diễu hành, trên đường phố trong kinh thành, nhà Vua lên cổng thành ngự lãm, rãi hoa, kiền thành kính lễ. Đến đời vua Hiếu Văn Đế năm Thái Hòa thứ 2 (497) chiếu lịnh cho cung nghinh hết thảy các xe hoa chở tượng Phật vào trong cung, để nhà vua tán hoa cúng dường, và sau đó trở thành thông lệ thường niên”.

Trong các sách như Phật Tổ Thống Kỷ quyển 38, sách Lạc Dương Già Lam Ký quyển 3, sách Thành Nam Cảnh Minh Tự đều có ghi chép miêu tả cảnh tượng về nghi thức diễu hành xe hoa trong lễ Phật Đản như: “Chùa Cảnh Minh được xây dựng vào năm Cảnh Minh, cho nên có tên gọi như vậy.... Ngày mồng 7 tháng 4 tất cả xe hoa chở tượng Phật của các chùa trong Kinh sư vân tập về đây. Bộ thượng thư lại kiểm có hơn ngàn xe, đến ngày mồng 8 đoàn xe hoa thứ tự vào thành, qua cổng Tuyên Dương, đến trước hoàng cung, để thọ nhận Hoàng Đế rãi hoa cúng dường.

Vào ngày đó, hoa vàng sáng rực trời, bảo cái nhiều như mây, tràng phan, cờ phướng nhiều như rừng, nhang khói như mù sương, Phạm nhạc pháp âm, rung chuyển trời đất, cả trăm thứ hý kịch của nhân dân múa hát cúng dường Phật Đản. Danh Tăng đức chúng, chống tích trượng đi cả đoàn, Tín đồ pháp lữ, cầm hoa đi vô số, đường phố lớn nhỏ, người người đông nghịt. Bây giờ có các vị Tăng Tây Vực thấy cảnh tượng như vậy, thốt lên; thật đúng là nước Phật”. Qua sự miêu tả trên đây cho chúng ta thấy nghi thức diễu hành xe hoa trong lễ Phật Đản được du nhập rất sớm vào Phật Giáo Bắc Truyền và đến thế kỷ thứ 4, 5 thì đã rất thịnh hành trở thành nghi thức không thể thiếu trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Đông Độ.

Từ thời Nam Bắc Triều đến Tùy, Đường, Tống nghi thức diễu hành xe hoa có tượng Phật ngày một thịnh hành và phát triển, bắc có Tây Hạ, tây đến Tứ Xuyên, nam các tỉnh Hồ Quảng đều lưu hành nghi thức hành tượng còn được gọi là nghi thức “Hành Thành” hoặc là “Tuần Thành”, trong sách Pháp Uyển Châu Long quyển 23 có đoạn chép: “...đến ngày mồng 8 tháng 4, Thành Đô diễu hành xe hoa chở tượng Phật...”. Trong sách Tuế Thời Quảng Ký quyển 20, đời Tống có đoạn dẫn “Hình Sở Tuế Thời Ký” chép: “trong năm đến ngày mồng 8 tháng 2, ngày Phật hạ sanh, ngày Phật thành đạo, những nhà theo Đạo Phật trì Bát quan trai giới, làm xe có bảo cái... đến ngày lễ trì hương hoa đi khắp thành một vòng, gọi là Hành Thành.”. Trong sách Tăng Sử Lược đời Đường chép: “Khi tượng vàng từ chùa Cảnh Hưng được thỉnh ra, Vua cho 100 lính Dực Lâm quân khiên kiệu, đoàn nhạc rước do đội nhạc của cung đình đảm trách... xe hoa chở tượng Phật cùng với tràng phan, bảo cái che cả một góc trời...đây là nghi thức Hành Thành của Đại Đường vậy”.

blank

Đến đời nhà Tống phía bắc có nước Liêu, phía nam có Đại Việt, đương thời Phật Giáo ở hai nước này rất thịnh hành và đã trở thành quốc giáo. Nghi thức diễu hành xe hoa trong ngày lễ Phật Đản cũng được tổ chức hết sức trang nghiêmlong trọng, không thua kém gì ở Trung Hoa. Trong sách Liêu Sử quyển 53 chương Lễ Chí sách Khiết Đan Quốc Chí đều có chép về nghi lễ hành tượng trong ngày lễ Phật Đản của nước này: “...Đến ngày Thái tử Tất Đạt Đa đản sanh, ở Kinh Đô cũng như các Châu, Quận, dùng gỗ chạm tượng Phật, đội nghi trượng, nhạc lễ thỉnh rước cả trăm người, thỉnh tượng đi diễu khắp thành.."

Nước ta đến thời Lý, Trần nước nhà độc lập hưng thịnh, lúc bấy giờ Phật Giáo đã trở thành quốc giáo, được vua chúa kính tin, nhân dân quy ngưỡng, cho nên ngày lễ Phật Đản cũng như nghi thức Hành Tượng diễu hành xe hoa trong ngày đại lễ đã thành quốc lễ của dân tộc Việt Nam, vì vậy từ vua quan đến thứ dân ai ai cũng vui mừng, cung kính, nô nức đón chào ngày đại lễ.

Trong sách Thơ Văn Lý Trần dịch văn bia Tháp Sùng Thiện Diên Linh đã miêu tả rất chi tiết không khí lễ hội: “Nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an, bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng; tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa”, hay “Sai phụng thường chỉnh đốn kiệu xe, khiến phong bá quét sạch bụi bặm. Khói trầm đàn như mây toả khắp sơn khê, bóng cờ phướng như ráng phô đầy các ngả.

Chuông trống vang ầm, khánh tiêu rộn rã. Phía trước xe mây Tam bảo, đằng sau kiệu báu thánh hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung, về hết trẻ già muôn nước. Điện hoa vắt ngang phía trước, chùa Phật mở rộng bên trong. Hội Tăng Ni trai khiết, diễn Giác Đế chân kinh.

Hoàng đế nghiêm trang, đọc kệ đoạn cúi đầu tạ lễ. Cung nga khép nép, nghe kinh xong dâng sữa múa ca. Thổi cơm chay trắng muốt, thết khách đói qua đường, phát tiền quý ùn ùn, cấp dân nghèo khắp chốn. U hiển đều về, thiên long cùng đến; đem lực công tối thượng, phúc đức vô lường, ca ngợi hoàng cương vững bền như trời đất. Cầu mong bảo vận vằng vặc như trăng sao; sớm sinh thái tử, nối mãi mệnh trời. Mong gốc ngành muôn thuở, cầu xã tắc muôn năm. Cỏ lướt nhiều phương, quỳ nghiêng muôn nước”.

Đất Nước Việt Nam, Dân Tộc Việt Nam, Phật Giáo luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam trong công cuộc dựng nước và giữ nước từ thưở hồng hoang đến ngày độc lập thạnh trị, không thời điểm nào, không phút giây nào mà không có sự đóng góp của Phật Giáohồng ân của Đức Phật cho đất nước này, dân tộc này cho nên tất cả những vị minh quân, anh hùng dân tộc đã khai sáng những thời đại độc lậpvinh quang cho đất nước Việt Nam, từ Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn đến Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông, Phật Hoàng Trần Nhân Tông, và các chúa Nguyễn trong buổi đầu đi mở cõi và lập quốc ở đàng trong, như Nguyễn Hoàng (chúa Tiên), Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi), Nguyễn Phúc Lan (chúa Hiền), Nguyễn Phúc Tần (chúa Nghĩa), Nguyễn Phúc Chu (xứng đáng để được tôn vinh là chúa Phật), tất cả đều là những người con ưu tú của dân tộc Việt, là đệ tử của bậc Đại Pháp Vương, cho nên họ chí thành cung kính long trọng cử hành lễ Phật Đản Sanh là việc làm cụ túc ý nghĩa chân thànhcảm ơn đúng theo truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.

Xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Phật Giáo như gắn chặt, có mặt hầu hết trên các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, triết học, nghệ thuật, âm nhạc, xã hội.v.v... đâu đâu cũng thấy vết tích của Phật Giáo. Đến khi Chúa Nguyễn mang gươm đi mở cõi, một dãi trời nam lại hiện bóng từ bi, Phật Giáo lại cùng với dân tộc vào miền đất mới, trong quá trình mở cõi tạo tác sơn hà, Phật Giáo lại chứng minh truyền thống đồng hành cùng dân tộc của chính mình, và chính nơi miền đất mới hình thành hai trung tâm Phật Giáo mới của Phật Giáo Việt Nam đó là trung tâm Phật Giáo Bình Định và trung tâm Phật Giáo đế kinh Thuận Hóa.

Trung tâm Phật Giáo Bình Định đem ánh sáng của Phật Giáo Đại thừa đại chiếu nam phương, đem Lâm Tế thiền tông khai tâm đất Chân Lạp, dựng Phật đạo tràng hoằng hóa khắp chốn sông nước bưng biền. Trung Tâm Phật Giáo tại Đế Kinh Thuận Hóa được các đời vua chúa hết tâm hộ trì và kính ngưỡng, cho nên tục Phật huệ mạng, thỉnh thập phương danh đức, khai đàn thí giới.

Nguyên Thiều truyền pháp mạch, Liễu Quán lập tân tông, Vua chúa tác đạo nhân, danh Tăng nhập Đế khuyết, pháp hội, đạo tràng theo duyên khai mở, giới hội, hạ kỳ lần một ứng cơ, có thể đem so với Luy Lâu thuở trước, không kém cùng Diên Hựu ngày xưa. Nếu như đủ duyên nên trở lại Huế trong mùa Phật Đản chiêm ngưỡng nghi thức Hành Tượng từ chùa Diệu Đế đến Từ Đàm ta sẽ cảm thấy được nguyên vóc dáng, hình hài, dấu vết của nghi lễ Phật Giáo thời đại Lý Trần đón lễ Phật Đản Sanh.

Ngày nay truyền thống diễu hành xe hoa, cũng như nghi thức Hành Tượng theo cổ lệ của Phật Giáo Việt Nam trong Đại Lễ Phật Đản có thể nói chỉ còn ở Huế và cũng chỉ có Phật Giáo Huế tổ chức Phật Đản là đầy đủ sắc màu truyền thống nhất, bởi vì Phật Giáovăn hóa truyền thống chủ đạo của Huế, và cộng với tâm chí thành của người con Phật ở Huế đối với Đức Từ Bi.

Nhưng song song với sự gìn giữ nghi thức truyền thống của Phật Giáo Huế thì Phật Giáo cả nước lại tạo nên một hình ảnh Đại Lễ Phật Đản mới, mới cả tư duyhình thức, đem Phật Đản vào đời, trang nghiêm hoành tráng theo mô típ của văn hóa nghệ thuật đương đại, cũng xe hoa nhưng thắm màu hiện đại, thay lễ Hành Tượng bằng cờ Phật Giáohình ảnh Đức Phật rực rỡ khắp mọi nơi, có thể nói cả nước đón ngày Phật Đản trong tâm niệm, cổ kim một niềm kính lễ, mọi miền chung một tâm vui. Chúc Phật Giáo Việt Nam thêm một mùa Phật Đản, Tăng Già hòa hợp, Tín chúng tấn tu, gìn giử truyền thống cho mai hậu, phát huy tinh thần hiện đại hóa Phật Giáo, để Đạo Phật ngày một nhập thế hơn.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14466)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14184)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39817)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15351)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13913)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13960)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37422)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40134)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14673)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14340)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12710)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14888)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19249)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13841)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42709)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13872)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37311)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12718)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11809)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22612)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12551)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12609)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13103)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13135)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17307)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33328)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14871)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11081)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12491)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 12005)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11982)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13184)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51355)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12414)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6652)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30500)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13160)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13362)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30773)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19457)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12515)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11897)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14793)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13235)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13248)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30790)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12073)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11871)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12766)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31987)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29478)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11811)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11781)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10473)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11592)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9672)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9702)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10027)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35495)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10182)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10132)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10074)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9703)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27879)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15564)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9889)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13718)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9877)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9741)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18403)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12083)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9614)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9728)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8743)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8945)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8453)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11517)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31821)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12376)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13360)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8873)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9480)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11978)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9263)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9123)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9718)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29444)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9110)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9132)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33354)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8470)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30692)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31338)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37222)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32348)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9964)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27173)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8479)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19289)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13056)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant