Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phụ lục : Phác Họa về những Thực Hành Yoga Giấc Mộng

26 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14112)
Phụ lục : Phác Họa về những Thực Hành Yoga Giấc Mộng

NHỮNG YOGA TÂY TẠNG VỀ GIẤC MỘNG VÀ GIẤC NGỦ

Nguyên tác: The Tibetan Yogas of Dream and Sleep
Nhà Xuất Bản Snow Lion Ithaca, New York, 1998
Việt dịch: Đương Đạo - Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 2000

Phụ lục
Phác Họa về những Thực Hành Yoga Giấc Mộng

BỐN THỰC HÀNH CĂN BẢN

Thay Đổi những Dấu Vết Nghiệp

Suốt ngày, hãy liên tục ở trong tỉnh giác rằng mọi kinh nghiệm đều là một giấc mộng. Hãy gặp gỡ mọi sự như những đối tượng trong một giấc mộng, mọi biến cố như những biến cố trong một giấc mộng, mọi người như những người trong một giấc mộng. Hãy thấy thân thể chính bạn như là một thân thể trong suốt như huyễn. Hãy tưởng tượng bạn đang trong một giấc mộng minh bạch suốt trọn ngày. Chớ để cho những nhắc nhở này chỉ là sự lập lại trống rỗng. Mỗi khi bạn tự nói với mình, “Đây là một giấc mộng”, hãy thực sự trở nên minh bạch hơn. Hãy đưa thân thể và những giác quan của bạn thành tỉnh thức, hiện diện hơn.

Dẹp bỏ Bám chấp và Ghét bỏ

Hãy gặp tất cả mọi sự tạo nên tham muốnluyến ái như là những hình tướng trống không, như huyễnsáng tỏ của một giấc mộng. Hãy nhận biết những phản ứng với những hiện tượng của bạn là một giấc mộng ; mọi xúc tình, phê phán và yêu chuộng được tạo từ trong mộng. Bạn có thể chắc chắn rằng bạn đang làm điều này một cách đúng đắn nếu khi tức khắc nhớ rằng phản ứng của bạn là một giấc mộng, thì tham muốnluyến ái giảm nhẹ.

Làm mạnh Ý Định

Trước khi đi ngủ, hãy ôn lại chuyện ban ngày và suy nghĩ sự thực hành đã như thế nào. Hãy để những ký ức về ban ngày khởi lên và nhận biết chúng như những ký ức của giấc mộng. Hãy phát triển một quyết tâm mạnh mẽ tỉnh thức được trong những giấc mộng ban đêm sắp tới. Hãy đặt toàn tâm vào ý định này và cầu nguyện mạnh mẽ cho sự thành công.

Trau dồi Trí nhớ và sự Nỗ lực Hoan Hỷ

Hãy bắt đầu ngày với ý định mạnh mẽ duy trì sự thực hành. Ôn lại ban đêm, phát triển hạnh phúc nếu bạn đã nhớ lại hay đã minh bạch trong những giấc mộng. Tự cam kết với chính mình liên tục thực hành, với ý định trở nên minh bạch sáng sủa nếu bạn đã như vậy. Vào lúc nào trong ngày hay tối đều tốt để cầu nguyện cho sự thành công trong thực hành. Hãy phát sanh ý định càng mạnh mẽ càng mạnh càng tốt. Đây là chìa khóa cho sự thực hành.

NHỮNG THỰC HÀNH CHUẨN BỊ TRƯỚC GIẤC NGỦ

Chín Hơi thở Tịnh hóa

Ngồi trong tư thế thiền định trước khi nằm xuống ngủ, hãy làm chín hơi thở tịnh hóa.

Guru Yoga

Hãy thực hành guru yoga. Hãy phát sinh sùng mộ mạnh mẽ, rồi hòa lẫn tâm thức của bạn với tánh giác thanh tịnh của đạo sư, đạo sư tối hậu, đó là tánh giác bổn nguyên, bản tánh chân thật của bạn.

Che chở

Nằm xuống trong tư thế đúng, đàn ông bên phải, đàn bà bên trái. Hãy quán tưởng những dakini bao quanh bạn, che chở bạn. Hãy dùng tưởng tượng để chuyển biến cái phòng thành một môi trường linh thiêng, được che chở. Hãy làm nhẹ hơi thở bạn và làm bình an tâm thức bạn, quan sátcho đến khi bạn thư giãn và hiện diện, không bị vướng vào những câu chuyện và những mộng tưởng. Hãy tạo ra một ý định mạnh mẽ để có được những giấc mộng sáng tỏ, sống động, để nhớ lại những giấc mộng và để nhận biết giấc mộng là mộng khi bạn đang ở trong nó.

NHỮNG THỰC HÀNH CHÍNH YẾU

Đem Tỉnh giác vào Kinh mạch Trung ương

Sự thực hành của phần đầu tiên trong đêm. Tập chú vào trung tâm cổ họng, vào chữ A thanh tịnh, sáng rỡ, như pha lê nhuốm màu đỏ từ màu của bốn cánh hoa sen đỏ mà chữ A ở trên đó. Hãy hòa lẫn với ánh sáng đỏ.

Tăng cường sự Sáng tỏ

Khoảng hai giờ sáng, hãy thức dậy. Cũng trong tư thế sư tử, hãy thực hành thở bảy lần. Hãy tập chú vào tiglé màu trắng trong luân xa giữa hai lông mày khi bạn rơi vào giấc ngủ. Để cho ánh sáng trắng hòa tan mọi sự, cho đến khi bạn và ánh sáng là một.

Làm mạnh sự Hiện diện

Khoảng hai giờ nữa, lại thức dậy. Nằm nghỉ trên một cái gối cao, hai chân hơi xếp lại và thoải mái. Hãy tập chú vào chữ HUNG màu đen trong trung tâm trái tim. Hãy thở sâu, đầy và nhẹ nhàng hai mươi mốt lần. Hãy trộn lẫn với chữ HUNG màu đen và ngủ.

Phát triển sự Không Sợ hãi

Hai giờ sau nữa, lại thức dậy. Không cần tư thế hay hơi thở theo lối riêng biệt. Hãy tập chú vào một tiglé màu đen, sáng rỡ trong luân xa bí mật, ở sau bộ phận sinh dục. Đi vào giấc ngủ khi hòa lẫn với ánh sáng màu đen.

Khi mỗi lần thức dậy cố gắng hiện diện và ở trong thực hành. Vào buổi sáng, lần thức dậy cuối cùng của đêm, hãy tức thì hiện diện. Ôn lại ban đêm, hãy phát sinh những ý định, và tiếp tục với thực hành qua suốt ngày.

Thêm nữa, có ích lợi khi dành thì giờ thực hành an định (samatha) trong ngày. Điều này sẽ giúp cho tâm thức tĩnh lặng và tập chú và sẽ làm lợi cho mọi thực hành khác.

Điểm quan trọng nhất của cả hai thực hành chuẩn bị và thực hành chính là duy trì sự hiện diện càng bền bỉ càng tốt suốt cả ngày đêm. Đây là tinh túy của yoga giấc mộng và yoga giấc ngủ.

Thuật Ngữ

bardo (TT, bardo ; Skt, antarabhava). Bardo, trung ấm nghĩa là “trạng thái ở giữa” và ám chỉ trạng thái bất kỳ nào của hiện hữuđời sống, thiền định, giấc mộng, chết – nhưng thường nhất là ám chỉ trạng thái trung gian giữa cái chết và sự tái sanh.

báo thân (TT, longs sku ; Skt, Sambhogakaya). “Thân hưởng thọ” của một vị Phật. Báo thân là một thân hoàn toàn làm bằng ánh sáng. Hình tướng của nó thường được quán tưởng trong những thực hành kinh thừa và mật thừa. Trong Đại Toàn Thiện, pháp thân được quán tưởng thường hơn.

Bošn. Bošn là một truyền thống tâm linh địa phương của Tây Tạng có trước Phật giáo Ấn Độ. Dù những học giả không đồng ý với nhau về nguồn gốc đạo Bošn, thì bản thân truyền thống tuyên bố có một dòng truyền không đứt đoạn là mười bảy ngàn năm. Tương tự với những phái Phật giáo Tây Tạng, đặc biệt là với Nyingma, Bošn đặc trưng bởi một hệ thống tranh tượng riêng, một truyền thống chú thuật phong phú, và một dòng riêng biệt phát nguồn từ Phật Sherab Miwoche hơn là từ Phật Thích Ca.

Chín thừa của Bošn chứa đựng những giáo lý về những chủ đề thực dụng, như văn phạm, thiên văn, y học, chẩn bệnh, bình định những hồn linh v.v... cũng như những giáo lý về luận lý, ngữ nguyên học, siêu hình học, những mức độ khác nhau của tantra, và những dòng trọn vẹn về Đại Toàn Thiện (Dzogchen).

chakra (TT, khor-lo ; Skt, cakra). Nghĩa đen là “bánh xe” hay “vòng tròn”, tiếng Hán Việt là luân xa. Luân xa là để chỉ những trung tâm năng lực trong thân thể. Một luân xa là một nơi chốn ở đó một số kinh mạch năng lực gặp gỡ. Những hệ thống thiền định khác nhau làm việc với những luân xa khác nhau.

chošd (TT, gcod). Nghĩa đen “cắt đứt” hay “cắt xuyên qua”. Cũng được biết như “cách dùng sự sợ hãi” và “trau dồi lòng bố thí”, chošd là một thực hành nghi lễ nhằm dẹp trừ mọi bám luyến vào thân thểbản ngã của mình bằng cách cúng dường với lòng bi mẫn mọi thứ ấy cho những chúng sanh khác. Để làm được điều đó, sự thực hành bao gồm một sự kêu cầu những loại chúng sanh khác nhau và trí tưởng tượng cắt chia và chuyển hóa thân thể của hành giả thành những vật để cúng dường. Chošd dùng sự ca hát du dương, trống, chuông, tù và và thường được thực hành ở những nơi kích thích sợ hãi, như nghĩa địa, hay những đèo núi vắng vẻ.

dakini (TT, mkha’ gro ma). Chữ tương đương của Tây Tạng là khadroma, nghĩa đen là người nữ du hành trên trời. “Trời” ám chỉ tánh không, và dakini du hành trong tánh không; nghĩa là, bà hành động trong sự chứng ngộ viên mãn về tánh không, thực tại tuyệt đối. Một dakini có thể là một phụ nữ thuộc nhân loại, đã chứng ngộ bản tánh chân thật của mình, hay một phụ nữ phi nhân loại hay thiên nữ, hay một sự biểu lộ trực tiếp của tâm giác ngộ. Dakini cũng ám chỉ một loại chúng sanh sinh ra trong cõi thanh tịnh của những dakini.

dấu vết nghiệp (TT, bag chags). Mỗi hành động – thân, khẩu, ý – nếu được thực hiện với ý định và dù với sự ghét bỏ hay bám lấy nhỏ nhất, đều để lại dấu vết trong dòng tâm thức của cá nhân. Sự tích tập những dấu vết nghiệp này quy định, điều kiện hóa mỗi khoảnh khắc của kinh nghiệm của cá nhân đó, cả tích cực lẫn tiêu cực.

Dzogchen. Đại Toàn Thiện hay “đại thành tựu”. Dzogchen được xem là giáo lýthực hành cao nhất của cả Bošn và phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng. Nguyên lý nền tảng của nó là: thực tại, bao gồm cá nhân, thì vốn đã thành tựuhoàn thiện, không có cái gì cần phải chuyển hóa (như trong tantra) hay từ bỏ (như trong sutra, kinh) mà chỉ nhận biết nó thực sự là cái gì. Sự thực hành chủ yếu của Dzogchen là “tự giải thoát”: cho phép mọi cái khởi lên trong kinh nghiệm hiện hữu như nó là, không có sự tạo tác bởi tâm thức ý niệm, không bám lấy hay ghét bỏ.

gong-ter. Trong văn hóa tây tạng có một truyền thống terma : những đồ vật thiêng liêng, những bản văn hay giáo lý được cất giấu bởi các đạo sư trong một thời đại cho sự lợi lạc của thời đại tương lai khi những terma được tìm ra. Những đạo sư khám phá ra terma (kho tàng) được gọi là những terton, người khám phá kho tàng. Terma có thể ở trong những nơi chốn vật chất như hang động hay nghĩa địa ; trong những nguyên tố như nước, gỗ, đất hay không gian; hay nhận được trong những giấc mộng, trong linh kiến và trực tiếp trong những mức độ sâu của tâm thức. Trường hợp sau được biết như là gong ter: kho tàng tâm.

hóa thân (TT, sprul sku; Skt, nirmanakaya). Hóa thân là thân xuất hóa của pháp thân. Thường thườngám chỉ sự biểu lộ vật chất, thấy được của một vị Phật.

hộ pháp (TT, srung ma/ chos skyong ; Skt, dharmapala). Những hộ pháp là những vị nam hay nữ cam kết bảo vệ Pháp (những giáo lý) và những hành giả của giáo lý. Họ có thể là những người bảo vệ thuộc thế gian hay những biểu lộ hung nộ của các bậc giác ngộ. Những hành giả mật thừa thường làm vừa lòng và nương dựa vào hộ pháp của dòng mình.

jalus. Thân cầu vồng. Dấu hiệu của sự chứng ngộ toàn triệt trong Đại Toàn Thiện là sự đạt đến thân cầu vồng. Những hành giả Đại Toàn Thiện chứng đắc, vì không còn mê lầm bởi hình tướng bề ngoài cho là có thật hay bởi nhị nguyên như tâm và vật, giải phóng năng lực của các nguyên tố tạo thành thân vật chất vào lúc chết. Thân thể tan biến, chỉ để lại tóc và móng tay chân, và hành giả đi vào cái chết một cách có ý thức.

kinh mạch (TT, tsa; Skt, nadi). Những kinh mạch là những “mạch” trong hệ thống tuần hoàn của khí trong thân thể, qua chúng những dòng năng lực vi tế chảy để duy trì và làm sống động đời sống. Bản thân những kinh mạch thuộc về năng lực và không thể tìm thấy trong mặt thể xác. Tuy nhiên, qua thực hành hay nhạy cảm tự nhiên, người ta có thể kinh nghiệm biết đến những kinh mạch.

kunzhi. Trong đạo Bošn, kunzhi là nền tảng của mọi cái hiện hữu, kể cả cá nhân. Nó không đồng nghĩa với thức a lại da của Duy thức học, cái này giống với kunzhi namshe hơn. Kunzhi là sự thống nhất của tánh không và sự sáng tỏ, của sự không xác định rỗng rang tuyệt đối của thực tại tuyệt đối và trò phô diễn không ngừng của hình tướngtỉnh giác. Kunzhi là nền tảng hay căn cứ của hiện thể (chúng sanhthế giới).

kunzhi namshe (Skt, alaya vijnana, a lại da thức). Kunzhi namshe là thức nền tảng của cá thể. Nó là “kho chứa” trong đó chứa giữ những dấu vết nghiệp, từ đây những kinh nghiệm bị quy định của tương lai khởi lên.

lama (Skt, guru). Lama nghĩa đen là “bà mẹ cao nhất”. Lama ám chỉ một vị thầy tâm linh, người quan trọng không gì hơn cho học trò. Trong truyền thống Tây Tạng, lama được coi trọng còn hơn Phật, vì chính lama làm sống lại giáo lý để cho học trò. Trên mức độ tối hậu, lama là Phật tánh của chính mình. Trên mức độ tương đối, lama là thầy dạy của mình.

lung (Skt, vayu). Lung là năng lực sinh khí, thường được biết với tiếng Sanskrit là prana. Lung có một dãy rộng ý nghĩa; trong bối cảnh của sách này nó ám chỉ năng lực sống mà sự sống động của thân thể và thức nương dựa lên.

ma-rigpa (Skt, avidya). Vô minh. Sự không hiểu biết chân lý về nền tảng, kunzhi. Thường có hai phạm trù của vô minh được diễn tả: vô minh bẩm sinh và vô minh văn hóa.

pháp thân (Skt, dharmakaya). Một vị Phật có ba thân : pháp thân, báo thânhóa thân. Pháp thân thường được dịch là “thân chân lý”, ám chỉ đến bản tánh tuyệt đối của một vị Phật, cái mà tất cả chư Phật chung nhau tham dự và nó đồng nhất với bản tánh tuyệt đối của mọi hiện hữu: tánh không. Pháp thânvô niệm, bất nhịthoát khỏi mọi tính chất.

rigpa (Skt, vidya). Nghĩa đen, “tỉnh giác” hay “biết”. Trong những giáo lý Đại Toàn Thiện, rigpa có nghĩa là sự tỉnh giác về chân lý, tỉnh giác bẩm sinh, bản tánh chân thật của cá nhân.

Rinpoche. Nghĩa đen, “bậc quý báu”. Một tôn vinh được dùng rộng rãi để chỉ một lama tái sanh.

samaya. Cam kết hay lời thệ nguyện. Nói chung, sự cam kết mà hành giả có trong liên kết với một thực hành mật thừa, về mặt thái độ hành xử và hành động. Có những thệ nguyện tổng quát và thệ nguyện đặc biệt với những thực hành tantra riêng biệt.

Shenla Odker. Shenla Odker là hình tướng báo thân của Shen-rab Miwoche, vị Phật lập ra đạo Bošn.

Shenrab Miwoche. Shenrab Miwoche là Phật hóa thân đã lập nên đạo Bošn, theo truyền thống đã sống mười bảy ngàn năm trước. Có mười lăm bộ tiểu sử của Shenrab Miwoche trong kinh sách Bošn.

tantra (TT, rgyud). Tantra là những giáo lý của chư Phật, như là sutra (kinh), nhưng nhiều tantra được khám phá lại bởi những thiền giả của truyền thống terma. Những tantra đặt nền trên con đường chuyển hóabao gồm những thực hành như làm việc với năng lực của thân thể, sự chuyển di tâm thức, yoga giấc mộng và yoga giấc ngủ v.v... Một số loại tantra thuộc về con đường chuyển hóa không tiệm tiến, đốn chứng, chúng cũng chứa đựng những giáo lý về Dzogchen.

Tapihritsa. Mặc dù được xem là một con người lịch sử, Tapihritsa được tượng trưng trong tranh tượng như là Phật pháp thân, trần truồng và không đồ trang sức, nhân cách hóa cho thực tại tuyệt đối. Ngài là một trong hai đạo sư chính yếu trong dòng Đại Toàn Thiện Zhang Zhung Nyan Gyud.

tiglé (TT, thig le; Skt, bindu). Tiglé có nhiều nghĩa tùy theo bối cảnh. Dù thường được dịch là “giọt, hạt”, trong bối cảnh của những yoga giấc mộng và giấc ngủ, tiglé ám chỉ đến một khối cầu ánh sáng rực rỡ tượng trưng cho một phẩm tính của tâm thức và được dùng như một chỗ để tập chú trong thực hành thiền định.

yidam (TT, yid dam; Skt, devata). Yidam là vị thần ‘bổn mạng’ hay vị thần thiền định hiện thân một khía cạnh của tâm giác ngộ. Có bốn phạm trù yidam: bình an, tăng trưởng, thần lực và hung nộ. Những hóa thần yidam biểu lộ trong những hình thức khác nhau này để hàng phục những lực lượng tiêu cực.

Zhang Zhung Nyan Gyud. Là một trong những ‘vòng’, những giáo trình quan trọng nhất của những giáo lý Đại Toàn Thiện trong đạo Bošn. Nó thuộc về loại upadesha của giáo lý.

zhiné (TT, zhi gnas; Skt, samatha). “An định” hay “tĩnh lặng”. Sự thực hành an định tập chú trên một đối tượng bên ngoài hay bên trong để phát triển tập trung và định tâm. An định là một thực hành nền tảng, căn cứ cho mọi sự phát triển của sự thực hành thiền định khác cao hơn, và cần thiết cho cả yoga giấc mộng và yoga giấc ngủ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15604)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23077)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14098)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13016)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55159)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9213)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14478)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14203)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14232)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13917)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36380)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19932)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18209)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19256)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19188)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20349)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17692)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31590)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15977)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15065)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14735)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46254)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35979)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21080)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21661)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23448)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34456)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19543)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18989)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22981)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20230)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18415)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19888)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19580)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33471)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34584)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54582)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37796)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21191)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17943)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63742)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17436)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49733)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27536)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20336)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23091)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18930)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16363)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17978)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20992)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17402)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14503)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16903)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16414)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16065)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17532)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22047)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15155)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13527)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14392)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15429)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15043)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12744)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13402)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27447)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12570)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13246)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14512)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16271)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12436)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15463)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12885)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12224)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13229)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21706)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11301)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22790)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15133)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14971)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46243)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22525)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14622)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12667)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18940)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14780)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43915)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57053)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13885)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47559)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13687)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14619)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29051)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33367)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38430)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15433)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31275)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12555)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40463)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43476)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46705)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant