Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tuyên xưng Thông Điệp Phật Đản của Đức Thế Tôn

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11867)
Tuyên xưng Thông Điệp Phật Đản của Đức Thế Tôn

Tuyên xưng Thông Điệp Phật Đản

của Đức Thế Tôn

 

Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian hết 2011 năm dương lịch, đi xa hơn nữa 624 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni, nước Ca Tỳ La Vệ tức Ấn Độ bây giờ. Đó là Thái tử Tất Đạt Đa, con Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia.
 
Người từ cõi trời Đâu Suất, thị hiện giáng trần, ban ra Thông Điệp Vô ThượngKhai thị chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến”, khai sáng Đạo Từ Bi cứu khổ chúng sinh, thông lộ thanh lương cho phàm nhân lên đường Tứ Thánh.
 
Người đã ban Thông Điệp nhân bản hòa bình cho nhân loại: “Không có hận thù khi nước mắt cùng mặn. Không có giai cấp khi dòng máu cùng đỏ. Không có tranh chấp giết hại lẫn nhau khi mọi loài đều cần có sự sống và tôn trọng sự sống”. Người đã vạch ra tiêu chí chỉ hướng vươn lên: “Cội nguồn của khổ đau là tham lam, sân hận, si mê. Căn nguyên của oán cừu là ngã mạn, tranh đoạt, cửa quyền, hiếp đáp. Gốc rễ của bất anthủ thế, gườm nhau, cưỡng chiếm, đáp trả, hơn thua”. Người đã hoằng dương Đạo lý Giác ngộ, Giải thoát: “Chúng sanh vốn trầm luân trong biển khổ, lặn hụp trong căn nhà lửa Tam thế, xoay quần trong lục đạo luân hồi, mê lầm với bóng tối thâm u, đắm say với mộng huyễn bào ảnh, chưa biết và không có ánh sáng để đi”.
 
Người đi trước, dẫn đường và làm hướng đạo sư. Vàng bạc, châu báu, giàu có, nhung lụa ư ! Ai đầy đủ hơn, sung túc hơn được sống và thừa hưởng cung vàng điện ngọc ? Ai quyền uy hơn, cửu trụ hơn sẽ kế nghiệp Phụ Hoàng trị vì thiên hạ, đứng trên thiên hạ với thần dân quốc thích ? Ai đẹp hơn trên trần gian, một Công chúa Gia Du sắc nước hương trời “Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn, Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa, Hương trời đắm nguyệt say hoa, Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình”, với hàng trăm hoa hậu tuyển chọn cho cung đình, với hàng ngàn mỹ nữ phục vụ cúc cung, yến tiệc linh đình, sơn hào hải vị, nhạc hội tháng năm.
 
Sinh thì Người đã biết rồi, duy nhất chỉ riêng Người mới bước đi bảy bước, mỗi bước nở ra một đóa hoa sen, bước cuối cùng đứng lại, tay đưa lên trời, tay chỉ xuống đất, dõng dạc nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Chứ tất cả những ai chào đời đều “Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì?”.
 
Cuộc ngoạn du ra bốn cửa thành, nhìn thấy bốn cảnh Già, Bịnh, Chết, một đạo sĩ, chính là tuyệt lộ. Tuyệt lộ dẫn đến tử lộ - chấm dứt mọi đắm lụy của nhân gian, chặt đứt mọi hệ lụy của trần gian mà con người nói riêng, chúng sinh nói chung, lặn hụp trầm luân mãi trong ba đường sáu nẻo từ vô thỉ đến nay, và di họa đến vô chung.
 
Cửa Thành phía Đông, kia là ai, sao lại nhăn nheo, lưng còm, tóc bạc, run rẩy, mắt mờ, tai điếc, lú lẫn, lãng quên ? Đó là một con người nhưng là người già! Ai mà gọi là thọ mới sống được như thế, nếu bằng không thì chết từ trong bụng mẹ, chết mới ra đời, chết lúc còn nhỏ thanh thiếu niên “Ngoài kia lắm mộ tuổi còn xanh”, chết thuở trung niên. Kiếp phù sinh dễ có mấy ai “thất thập cổ lai hy”? Sống sót lắm mới như thế kia, rồi từ lão niên lão giả, lòm khòm, lụ khụ, ngơ ngơ ngáo ngáo, khi quên khi nhớ, nói chẳng ra câu, mở miệng không lời, “Lợi còn không có nói chi răng, Sống trơ trơ biết chi ăn uống”, thế giới con người chập chờn cửa tử đọng lại mới ghi vào sách gọi là kỷ lục.
 
Cửa Thành phía Tây, kia là ai, sao lại đau đớn, nhăn nhó, rên la thảm thiết, có khi quằn quại cực hình, có khi nằm yên thở dốc? Cái mặc thì áo quần xốc xếch, mền chăn gối nệm bùi nhùi. Cái ăn không thèm ngó dù mỹ vị cao sang, mới hôm nào ngày ba bữa dư thừa vẫn kêu đói bụng. Uống ráng lắm từng hớp cầm chừng. Nhà cửa cũng lắc đầu. Vàng bạc cũng bảo thôi. Dục lạc ái ố không thèm ngó tới. Ruồi bu, muỗi đậu đuổi không xong. Nước miếng, mũi dãi nhểu nhảo lều bều… Xin lỗi, ngay cái đại cái tiện đổ bừa trên cái bô bên cạnh, nửa trong nửa ngoài nhơ nhớp tanh hôi. Đầu tóc bù xù rối bời chẳng cần chải chuốt, hai mắt lờ đờ không muốn khép mở, chân tay dở lên dở xuống không nổi, nói năng thì thào chẳng nên tiếng nên lời. Đó là cái bịnh, mà phải bịnh chí tử, bịnh trầm kha, bịnh thứ thiệt mới được. Đừng vội chê cười đánh giá hay bỡn cợt đãi bôi, nên nhớ ở đời ai không bịnh, khi bịnh rồi mới biết!
 
Cửa Thành phía Nam, kia là ai, sao lại cứng đờ, mắt nhắm nghiền, miệng ngậm câm, tay chân co quắp, không cục cựa, không nhúc nhích? Một nhúm người lại khóc lóc, kêu ca, đầu chít tang trắng, trên bàn có một di ảnh, một bát nhang, khói hương lan tỏa, một mâm cơm với một chén có vài miếng thức ăn gắp để sẵn, cắm đôi đũa lên đó. Rồi dâng trà lần 1, lần 2, lần 3, lại có tiếng ê a cầu nguyện, lễ tạ nhị bái, tam bái, người này chia buồn, người nọ phân ưu, nhìn nhau ngấn lệ? Đó là một con người đã chết! Đã có sinh thì phải có tử, không ai ngoại lệ, không ai thoát khỏi. Hết sống nổi thì phải chết, và nên nhớ rằng, lằn ranh sống chết không xa, không dài, không lâu, chỉ từng hơi thở! Tấm thân kia trả về cát bụi, con người kia chuyển hóa vô thường. Kiếp nhân sinh ngắn ngủi và trần gian chỉ là quán trọ phù du.
 
Cửa Thành phía Bắc, còn kia là ai, sao ăn mặc khác người, tư thái thong dong, phong cách tự tại, thoát ra vẻ thanh bạch, thánh thiện, an nhiên? Hỏi ra, người ấy không nhà không cửa, không vợ không con, không tiền không bạc, áo quần một bộ, gia tài một túi vắt vai. Thật vỏn vẹn, đơn sơ, thanh bần. Cái gì người ấy cũng không có mà cái có của người ấy khó tìm trên thế gian. Được đáp, ông ta là Đạo sĩ. Đạo sĩ là gì? Ai biết đạo, hiểu đạo, sống với đạo, trả lời rất dễ. Ai không biết đạo, mơ hồ về đạo, nghi hoặc cho đạo, giải bày nhiều cách cũng khó thông. Thì ra, Đạo là thế à!
 
Người đã quyết chí xuất gia tầm đạo. Vào một đêm kia, Mồng 8 Tháng 2 Âm lịch, Người âm thầm từ tạ Phụ Hoàng, từ biệt thê nhi, lìa bỏ hoàng cung, vượt hoàng thành, khi đến dòng sông A Nô Ma, nói với hầu cận Sa Nặc, đưa đến đây đủ rồi, hãy lui về, mang mái tóc xuân xanh, nhung bào, kiếm báu về trao lại Phụ Thân, thưa dùm ta rằng: “Ta chỉ trở về khi tầm ra Đạo, ngược lại, bằng không, xem như ta không có mặt trên thế gian này”. “Ngài ra đi vì chúng sanh, Ra đi nguyền đem cho đời bao vui sướng, Ra đi giải thoát luân hồi cho chúng sanh”.
 
Sáu năm trường giữa núi rừng Hy Mã, trùng trùng tuyết phủ, tắm gội gió sương, thời thọ thực mỗi ngày là vài hạt mè và vài cọng lá rừng, tận dụng mọi thời gian cho khổ hạnh, tham thiền, nhập định. Quần áo duy nhất một mảnh y vàng. Ngày thời chim hót, đêm tiếng thú vang. Ôi, hình ảnh của đạo sĩ Tất Đạt - bộ da bọc xương cách trí, thân hình kiệt lực tiều tụy, duy chỉ đôi mắt thâm sâu sáng quắc, duy chỉ nghị lực siêu tuyệt vô song, biểu hiện đức tính phi thường của một bậc thiên thượng thiên hạ duy ngã Thế Tôn, trầm tư một cái gì cao tột siêu xuất chưa liễu ngộ bản lai diện mục ? Cơ chừng nó chập chờn đâu đó, đến rồi đi, đi rồi đến, như con đom đóm lập lòe chưa đủ sức phá tan bóng tối, như thanh âm nhỏ bé chưa đủ sức làm tan vỡ hư vô, thượng thông thiên đường hạ triệt địa phủ, như tiếng sóng rì rào chưa đánh động trùng dương biển lộng!
 
Do đó, Người từ bỏ lối tu khổ hạnh, giai đoạn ban đầu ắt có và cần đủ khổ luyện, đúc rèn chuẩn mực, làm kim chỉ nam định hướng hành trình, vẽ bản đồ thiên la địa võng đạt ngộ, nhưng muốn đi tới đích, phải có sức của thân, lực của tâm, thần của trí. Không thể có sức lực trên tấm thân tiều tụy! Không thể có sáng suốt khi tâm trí hệ lụy cơ thể suy vi! Chao ôi, nhờ miếng sữa biếu tặng của cô bé chăn cừu Tu Xà Đề, còn hơn thần linh y dược, làm cho Người hồi phục khỏe khoắn lạ thường. Cảm ơn nghe thành phần nghèo khổ bần cùng trong xã hội, nghèo vật chất nhưng không nghèo tinh thần, nghèo miếng cơm manh áo nhưng không nghèo tấm lòng biết trân quý tình thương sự sống. Trong cuộc đời, nhiều lúc nghèo làm được mà giàu không làm được, nhiều khi giàu làm được mà nghèo không làm được, và biết đâu người giàu cần phải học cái chơn chất, trong sạch, thanh cao, thánh thiện của người nghèo!
 
Sau khi thọ dụng bát sữa xong, tìm đến một chỗ kia, dưới cội cây Tất Bát La cổ thụ, lá tròn đầy xanh mượt, cành vững chải vươn cao, dọc theo triền núi điệp trùng, bên cạnh dòng sông Ni Liên thì thầm muôn thuở. Người ngẫm nghĩ, có lẽ không đâu thích hợp hơn nơi này, không đâu an định hơn vị thế nơi đây. Bèn kết cỏ làm bồ đoàn, đặt sát gốc cây, sau lưng là núi rừng, trước mặt là dòng sông. Người tự phát đại thệ nguyện: “Nếu không tầm ra Đạo, không chứng đắc, không liễu ngộ, thì dù cho thịt có nát, xương có tan, ta cũng quyết không rời bỏ chỗ này”. Và Người buông tất cả, an tọa kiết già, sâu vào thiền định.
 
Ngày một, Người vẫn ngồi yên. Ngày hai không nhúc nhích. Ngày ba không động đậy. Cho tới tuần 1, tuần 2, tuần 3, vẫn cứ thế, bất động, không lay. Bên ngoài, lục trần im bặt thanh âm, đối cảnh. Bên trong, lục căn trong vắt an tịnh pha lê. Núi rừng im tiếng gió. Dòng sông lặng nước reo. Chim không nghe tiếng hót. Thú không nghe tiếng vang. Không gian như ngưng đọng. Thời gian như ngừng trôi. Đến một đêm cuối của tuần “thất thất”, canh một, canh hai, canh ba, bỗng lục thông tuần tự hiển bày, chân như hiển lộ, mặt mũi thật của con người, của nhân sinh, vũ trụ được khai ngộ tinh tường. Cái gọi là trùng trùng vốn không diệt không sinh. Cái gọi là bản lai vốn không còn không mất. Cái gọi là vạn hữu càn khôn vốn không đục không trong không tăng không giảm. Đó là Phật tánh chơn thường vi diệu hằng nhiên. Không phải chỉ riêng Người mà ai ai cũng có, nên Người dõng dạc Thông Điệp “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Người đã chứng đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vô thượng chánh đẳng bồ đề. Nơi người ngồi gọi là Bồ đề tọa, cây Bát La gọi là cây Bồ Đề, Đạo của Người hoằng dương gọi là Đạo Giác Ngộ.
 
Tuyệt trần thay, tuyệt thế thay Đạo sĩ Tất Đạt Đa! Nếu là người thường, đời thường, với cương vị Đông cung Thái Tử, với vợ đẹp con ngoan, với cung vàng điện ngọc, với mọi sắc màu dục lạc tột đỉnh của trần gian, không phải Tất Đạt Đa thì kim cổ nào ai làm được ? Nếu Người cũng như bao nhiêu vị Thái tử khác trên thế gian, tận hưởng mọi nhung lụa sang giàu, ngất ngưởng cương vị vua chúa lộng lẫy quyền uy, rồi hoàng hậu hoàng phi với muôn ngàn cung tần mỹ nữ, khi thời đại biến chuyển hưng phế thịnh suy, dù có ra sao cũng phải tử vong gọi là băng hà. Và Người cũng đã biệt tăm biệt tích như hàng bao nhiêu Thái tử khác, hay hàng vô số vua chúa khác, đã từ 2,600 năm trước.
 
Nhưng Người thì không. Người mãi mãi là đấng Như Lai, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Người mãi mãiTa Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Người mãi mãi là Đức Từ Bi hiện hữu vô cùng cho chúng sinh biết thương yêu, tôn trọng sự sống. Người mãi mãi là ngọn đuốc trí tuệ sáng ngời cho chúng sanh biết nẻo mà đi. Người mãi mãiHiện tại Trang nghiêm vương Phật, nối kết Qúa khứ thiên ức Phật, hoằng truyền Vị lai thiên ức Phật mà Đức Di Lặc Từ Tôn sẽ đăng tòa Long Hoa Pháp Hội 16 triệu năm sau.
 
Hình ảnh nào đáng quý hơn, đáng tôn thờ hơn, đáng nêu gương hơn. Một bậc Giáo Chủ cõi Ta Bà, một bậc Thầy của thiên nhơn, một đấng Cha Lành chung bốn loại, mà cái mặc vẫn chỉ có 3 Y, cái ăn vẫn ngày ngày Khất thực, đầu trần chân đất như bao đệ tử khác, ngủ nghỉ trên cái đơn gỗ mộc như thất chúng đệ tử. Ôi dung dị vô biên! Ôi chơn chất vô thượng! Hình ảnh đó sao không học mà lại “Trưởng giả học làm sang”, được một chút gì đã cố quên chối bỏ cái nghèo khó thuở cơ hàn, xa lánh tương lân dòng họ!
 
Người là bậc Thầy tuyệt thế bất nhị, ròng rã 45 năm trường hoằng khai Tam Tạng kinh điển, ba rừng giáo lý thượng thừa, mà 26 thế kỷ qua, chưa ai đã từng đọc hết, chưa ai đã từng xem xong, cho đến thế kỷ “văn minh” hai mươi mốt, với hệ vi tính công nghiệp điện tử toàn cầu, vẫn mò mẫm chưa thông.
 
Thế giới văn minh nhân loại hôm nay, nào Bác học tuyệt siêu, nào Khoa học tuyệt đỉnh, nào Y học tinh hoa, cơ sở Thiên văn, Viễn vọng, cơ quan khám phá không gian, nhân - vật - trí - lực cùng đầu tư, cùng đổ ra. Tuy nhiên, bịnh nan y vẫn bó tay chưa nói đến bịnh đột biến phát sinh dịch nhiễm, phi thuyền không gian tạm viếng Mặt Trăng, dò dẫm Hỏa tinh, chưa tới Kim tinh, nói chi qua khỏi Thái dương hệ. Rồi hiện tượng Đĩa bay, Người ngoài không gian vẫn bí ẩn, mê hoặc. Thế giới hữu hình, siêu hình như chuyện cổ tích, thần thoại, dù bao nhiêu nhà nghiên cứu, học giả tìm tòi, viết lách, và nghệ thuật phim ảnh diễn dịch mơ hồ. Trong khi Người, 26 thế kỷ trước đã nói: “nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng”, “hằng hà sa số thế giới”. Mỗi thời Kinh giảng của Người, không những chỉ Thập đại đệ tử, 1,250 vị đệ tử lớn, 7 lớp đệ tử xuất gia tại gia nghe, mà còn vô số Chư Thiên rải hoa cúng dường thính pháp, cho đến vô số Ma vương, Đại ma vương nhiếp phục phụng hành.
 
Ngày Phật Đản 2635 năm nay, dương lịch 2011, âm lịch Tân Mão niên, Phật lịch 2555 năm, vốn đã từng năm, từng năm kéo dài hơn 25 thế kỷ, với Tổ Tổ truyền thừa, Tăng Già chấn tích trùng quang, khoảng ¼ dân số thế giới quy ngưỡng tri hành, khắp mọi quốc gia dân tộc vượt qua biên cương ranh giới.
 
Bản thân chúng tôi đón nhận, chứ thật sự không mừng lắm dù Liên Hiệp Quốc công nhận Ngày Khánh Đản của Đức Thế Tôn trở thành Ngày Lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc vào năm 1999. Cái nhìn của chúng tôi, quá chậm. Cái đánh giá của chúng tôi, quá yếu. Chậm, bởi Đạo Phật đã hiện hữu 2600 năm qua, sau vài Tôn giáo cổ đại, nhưng trước nhiều Tôn giáo sau này. Yếu, bởi công nhận Ngày Lễ Quốc Tế mà sao không Nghỉ Lễ có tính quốc tế. Và cảm thấy kỳ kỳ, những quốc gia Phật Giáo lâu đời, tín đồ Phật Giáo đa số, không Nghỉ Lễ của Phật Giáo mà lại Nghỉ Lễ tôn giáo khác với thời gian có mặt ít hơn, tín đồ thiểu số. Hy vọng một ngày không xa, Liên Hiệp Quốc phải thực hiện cho bằng được mỗi tôn giáo lớn trên trái đất này phải có Ngày Lễ Chính của họ và được Nghỉ Lễ trên toàn thế giới, không cá biệt bất cứ tôn giáo nào, bởi mỗi tôn giáo đều chỉ hướng cho đời, mỗi tôn giáo đều an tĩnh tâm linh. Đây, có thể là bàn đạp san bằng hệ lụy dị biệt, cách ngăn, tỵ hiềm để con người được gần nhau hơn, nhân loại tin yêu nhau hơn.
 
Vô tình năm nay chúng tôi có nhận và đọc Thông Điệp Phật Đản của Ông Ban Ki Moon, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc “…cốt lõi của nó là vấn nạn về khổ đau của nhân loại mà chính Đức Phật đã nhìn thấy và nhấn mạnh cách đây hơn 2,500 năm” ; “Lời khai thị của Ngài…khơi dậy những cuộc hội đàm đa phương” ; “Rất nhiều tổ chức Phật Giáo đang thực hành giáo pháp của Đức Phật. Tôi vô cùng cảm ơn sự ủng hộ của họ đối với những hoạt động của Liên Hiệp Quốc nhằm đạt được Những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ” ; “…tôi hy vọng tất cả mọi người có thể dựa vào những lời dạy có giá trị phổ quát trong Đạo Phật để hành động trong tình đoàn kết với những người đang đau khổ, để góp phần tạo nên một thế giới nhiều tình thương yêu hơn, nhiều sự tỉnh giác hơn cho tất cả chúng ta”.
 
Lại thêm Thông Điệp gởi đến Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc của Bà Irina Bokova, Giám đốc UNESCO. Rằng “Nhân Đại lễ Vesak lần thứ 8, tôi muốn bày tỏ lời chúc chân thành và nồng hậu nhất đến tất cả mọi Phật tử trên khắp thế giới” ; “…thúc đẩy sự đối thoại giữa các nền văn hóa, tôn giáo, và giữa mọi người với nhau trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta phải làm việc mỗi ngày để xóa đi sự hiểu lầm, để nâng cao kiến thứcthắt chặt mối quan hệ cộng tác với nhau” ; “Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã được thành lập nhằm góp phần tạo dựng nền hòa bình lâu dài, bền vững, thông qua sự hợp tác về giáo dục, khoa học, văn hóa, giáo tiếp và thông tin”; “Tầm quan trọng của Hội thảo lần này (tại Đại Lễ Phật Đản) chính là ở đây”.
 
Cái nhìn của chúng tôi, có một sự kỳ thú qua hai Thông Điệp này.
 
Vâng, họ cũng là hai con người, nhưng khác người thường, nên Lời Chúc Tụng của họ mới gọi là Thông Điệp. Một - của người đàn ông, hay nam giới, nam tử - giữ trọng nhiệm Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Một - của người đàn bà, hay nữ giới, nữ lưu - nắm cương vị Giám đốc Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên Hiệp Quốc. Ông Ban Ki Moon người Châu Á , Bà Irina Bokova người Châu Âu - tượng trưng cho Đông PhươngTây Phương, cho Da Màu – Da Trắng. Đông – Tây đã gặp nhau. Da Màu – Da Trắng đã gặp nhau.
 
Vâng, Đức Phật Thích Ca Giáo chủ cõi Ta Bà đã nói: “Không có hận thù khi dòng máu cùng đỏ. Không có ngăn cách khi nước mắt cùng mặn. Tâm bình thế giới bình. Hận thù không tiêu diệt được hận thù mà chỉ có Từ bi mới xóa sạch được hận thù”.
 
Vâng, ý nghĩa siêu tuyệt của Đạo Phật, rằng: người có Đông Tây Nam Bắc nhưng Phật tánh không có Nam Bắc Đông Tây, màu da có trắng đen vàng đỏ nhưng Phật tâm đồng đẳng không màu. Nhân loại nhiều chủng tộc quốc gia trên năm châu bốn biển, nhưng lương tri hòa điệu giai tầng, tình người hòa chung sự sống.
 
Vâng, nếu các quốc gialiệt cường hay chậm tiến mà không chạy đua theo bạo lực, vũ khí, hạt nhân, nguyên tử, quốc phòng, mà dùng mọi nhân - tài - vật - lực cho con người, cho sự sống, thì hòa bình thế giới tự nhiên có mặt, mọi bất ổn khu vực, liên quốc, đa quốc hay chiến tranh lạnh chiến tranh nóng tự nhiên triệt tiêu. Hơn nữa, các ngân khoản phí tổn khổng lồ bạch hóa hay úp mở ấy, thiết nghĩ sẽ đủ và dư để san lấp hố thẳm giàu – nghèo, để hàn gắn vết tích tang thương xây dựng lại những thiên tai đã, đang và sẽ liên tục liên hoàn xảy ra mọi nơi mọi lúc.
 
Cuộc đời, sự sống, hành xử, đối đãi, tin yêu, tôn trọng, Đức Phật đã ban Thông Điệp diễm tuyệt muôn đời.
 
Xã hội, thế giới, nhân loại, nhân sinh, đạo đức, nhân bản, Đức Phật đã ban Thông Điệp tuyệt thế muôn năm.
 
Không những Ngài chỉ ban Thông Điệp của Tình Thương, Sự Sống, mà Ngài còn ban Thông Điệp hết khổ đau, sống an lành, giải quyết được Sinh, Già, Bịnh, Chết, dung thông Tứ Thánh Lục Phàm, mở rộng Sáu Đường Ba Cõi, và phổ nhiếp càn khôn vũ trụ vô lượng hằng hà sa số thế giới.
 
Thật vinh hạnh cho những ai làm người con Đức Phật, ân đức cao dày mới được làm đệ tử của Đức Từ Bi, căn duyên gốc rễ nhiều đời mới tựu thành Trưởng tử Như Lai trên hành trình giác ngộ, cứu nhân độ thế, chuyển hóa quần sanh, nhập lưu Thánh Chúng.
 
Hỡi nhân loại và hỡi chúng sanh! Thân người dễ gì có được. Phật Pháp dễ gì sẽ gặp. Đạo Pháp dễ gì mới nghe. Phật Đạo dễ gì mới thành.
 
Phật Đản quý vị đã biết rồi. Đạo Phật quý vị đã nghe rồi. Chần chừ gì nữa. Sang giàu và nghèo hèn ư! Quyền uy và bạo lực ư! Chiến tranh và thù hận ư! Chủng tộc và màu da ư! Địa bàn và giới tuyến ư! Gia tàisự nghiệp ư! Tài sắc danh thực thùy ư!
 
Nghĩa địa đã chật mồ. Hồn ma luôn vất vưởng. Khói lạnh đống tro tàn. Sống và Chết không có lằn ranh. Nghìn thu và Thiên cổ đợi chờ. “Trăm năm còn có gì đâu, Chẳng qua một nắm cỏ khâu ranh rì”, hoặc “Một hũ cốt xương mờ dấu tích, Bóng hình ai nhòa nhạt phôi pha, Cuộc đời tựa giọt sương sa, Nắng tan đâu mất la đà về đâu, Mau mau tỉnh ngộ qui đầu, Phật Đà vô thượng nhiệm mầu đẹp thay”.
 
Dâng lên cúng dường, ngưỡng phục hồi quy, quay đầu bỉ ngạn, chính là Thông Điệp của Sự Sống và Thông Điệp Phật Đản muôn đời.
 
Hướng về Phật Đản là hướng về sự thanh cao minh triết thường hằng. Từng thời kỳ thời đại sẽ qua đi, từng chủ thuyết chủ nghĩa sẽ xếp theo trang lịch sử, nhưng Thông Điệp của Tình Thương của Trí Tuệ của An Lành Giải Thoát miên viễn mọi không thời bất di bất dịch, sẽ góp phần rất lớn, sẽ là nền tảng vững chắc, và là chỉ hướng tuyệt siêu, không những cho Thiên Niên Kỷ 3,000 mà còn vĩnh trụ thiên thu
 
Viết cho Ngày Phật Đản 2635 - Phật lịch 2555,
Âm lịch Rằm Tháng Tư năm Tân Mão,
Dương lịch 17 tháng 5 năm 2011
 
TNT Mặc Giang
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14447)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14157)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39760)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15326)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13894)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13941)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37366)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40083)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14654)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14319)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12672)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14861)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19230)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13814)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42649)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13851)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37275)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12699)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11780)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22567)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12522)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12577)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13074)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13123)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17285)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33280)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14845)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11052)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12470)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11972)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11941)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13150)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51286)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12394)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6624)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30445)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13133)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13341)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30712)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19407)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12496)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11863)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14778)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13210)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13211)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30714)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12052)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11846)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12739)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31924)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29437)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11797)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11757)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10441)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11568)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9650)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9678)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10008)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35439)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10167)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10107)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10061)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9676)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27829)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15529)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9872)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13693)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9855)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9713)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18351)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12051)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9579)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9703)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8728)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8934)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8433)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11487)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31767)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12352)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13342)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8846)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9461)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11954)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9241)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9086)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9693)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29383)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9097)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9118)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33285)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8441)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30650)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31260)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37152)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32306)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9942)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27125)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8459)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19253)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13025)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant