Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 10: Tịnh độ luậnSinh nhân thuyết của Cát Tạng

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 11420)
Chương 10: Tịnh độ luận và Sinh nhân thuyết của Cát Tạng

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG X: TỊNH ĐỘ LUẬNSINH NHÂN THUYẾT CỦA CÁT TẠNG

Tiết 1: Sự tích ngài Cát Tạng

Ngài Cát Tạng vốn là người nước An Tức (nước Táp-mạt-kiến), cha ngài tránh kẻ thù nên dời sang Nam Hải. Về sau, ông chuyển đến Kim Lăng (Nam kinh, Giang Tô), rồi mới sinh ngài Cát Tạng. Năm 12 tuổi, ngài xuất gia với ngài Pháp Lãng ở chùa Hưng Hoàng, học Bách luận v.v… Năm nhà Tùy bình định Bách Việt, ngài đi về phương Đông đến núi Tần Vọng (phủ Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang), dừng ở chùa Gia Tường giảng kinh luận, đồ chúng hơn cả nghìn người, đời gọi ngài là đại sư Gia Tường. Niên hiệu Đại Nghiệp thứ 2 (606TL), đời Tùy, theo lời thỉnh của Dạng Đế, ngài đến đạo tràng Huệ NhậtDương Châu (huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô). Ngài lại dời đến chùa Nhật Nghiêm ở Trường An (huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây), chỉ chuyên giảng thuyết kinh luận. Đầu niên hiệu Vũ Đức, thời Đường, ngài là một trong mười vị đại đức nổi tiếng đương thời, ngài giám sát hai ngôi chùa Thật TếĐịnh Thủy. Vào tháng 5 niên hiệu Vũ Đế thứ 6 (623TL), ngài bị bệnh và đã trứ tác Tử bất bố luận. Về sau, ngài thị tịch, hưởng thọ 75 tuổi (hoặc 70 hay 71 tuổi). Các sách của ngài trứ tác gồm Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ 1 quyển, Quán Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ 1 quyển, Pháp hoa kinh huyền luận 10 quyển, Pháp hoa kinh nghĩa sớ 12 quyển, Tịnh Danh huyền luận 8 quyển, Thắng Man bảo quật 6 quyển, Đại thừa huyền luận 5 quyển, Tam luận huyền nghĩa 1 quyển, Tam luận huyền nghĩa sớ 16 quyển v.v… cả thảy vài chục bộ.

Ngài Cát Tạng y theo giáo nghĩa của Bát-nhã cổ súy Vô đắc chính quán, ngài được tôn xưng là vị tổ trùng hưng tam luận và ngài cũng rất quan tâm đối với giáo môn Tịnh Độ, nên ngài đã giải thích văn nghĩa kinh Vô Lượng ThọQuán kinh sớ, trong bài tự, ngài ân cần thuật rõ yếu chỉ vãng sinh tịnh độ. Cát Tạng truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 11 ghi: “Ngài tạo hai mươi lăm tôn tượng, sớm tối chí thành lễ sám”. Nếu hai mươi lăm tôn tượng này là hai mươi lăm vị bồ-tát được nói trong kinh Thập vãng sinh A-di-đà Phật quốc thì có thể thấy được ngài là một người tín ngưỡng Di-đà. Cát Tạng truyện lại có ghi: “Khi ngài Cát Tạng sắp mạng chung, thị giả đốt hương, ngài bảo xưng danh hiệu Phật”. Tuy chưa rõ là danh hiệu Phật gì nhưng theo trong Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ v.v… của ngài, thấy được nhiều lần ngài nêu lên mười niệm vãng sinh, danh hiệu Phật ấy có phải là danh hiệu Di-đà hay không cũng chưa thể biết được. Tóm lại, đại sư Cát Tạng không phải là người chỉ giải thích về nghĩa lý của pháp môn Tịnh Độ mà thôi.

Tiết 2: Phân loại Tịnh Độ

Nay thử nói về ngài Cát Tạng đối với việc phân loại Tịnh Độ: Trước tiên, Đại thừa huyền luận quyển 5 nói rõ quốc độ có 5 loại độ: tịnh độ, bất tịnh độ, bất tịnh tịnh độ, tịnh bất tịnh độ và tạp độ.

Tịnh độ là cõi thuần tịnh của chúng sinh được bồ-tát giáo hóa, tu thiện duyên mà cảm ứng.

Bất tịnh độ là cõi bất tịnh của những chúng sinh tạo duyên ác mà chiêu cảm.

Tịnh bất tịnh độ nghĩa là ban đầu thì là cõi tịnh, sau khi duyên của chúng sinh cảm ứng được cõi tịnh này hết, thì có chúng sinh tạo duyên ác sinh đến, nên cõi này biến thành cõi bất tịnh, tức là sau khi Di-lặc nhập niết-bàn, thế giới Ta-bà này lại trở thành bất tịnh độ.

Bất tịnh tịnh độ nghĩa là ban đầu thì cõi này bất tịnh, duyên của chúng sinh cảm ứng cõi bất tịnh này hết , lại có chúng sinh tịnh thiện sinh đến, cõi này lại chuyển thành tịnh độ. Như khi Di-lặc xuất thế, thế giới Ta-bà này biến thành tịnh độ; lại như ban đầu Phật Thích-ca xuất hiệnuế độ, sau đó Linh Sơn biến thành tịnh.

Tạp độ là cõi tịnh uế xen tạp nhau do chúng sinh tạo nghiệp thiện, ác lẫn lộncảm ứng.

Năm độ này đều do tự nghiệp của chúng sinh cảm ứng, cho nên gọi là Báo độ của chúng sinh. Như một quốc gia phải có một vị vua; cũng vậy Đức Phật thường vào trong các Báo độ này để giáo hóa chúng sinh, cho nên những Báo độ ấy cũng gọi là Ứng độ. Vì vậy, Báo độ của chúng sinh chia thành 5 loại riêng biệt, Ứng độ của Đức Phật ứng hiện cũng có 5 loại, hợp thành 10 độ. Trong Quán kinh sớ của ngài cũng nói báo, ứng, tịnh, uế mỗi cõi đều có 5 câu riêng biệt: 1. Trước uế sau tịnh, 2. Trước tịnh sau uế, 3. Trước sau đều tịnh, 4. Trước sau đều uế, 5. Trước sau tạp hội. Trước uế sau tịnh tức là Bất tịnh tịnh độ ở trước; Trước tịnh sau uế tức là Tịnh bất tịnh độ ở trước; Trước sau đều tịnh tức là Tịnh độ thứ nhất; Trước sau đều uế tức là Bất tịnh độ; Trước sau tạp hội tức là tương đương với Tạp độ ở trước. Hai sách này đồng một thuyết. Trong Hoa nghiêm kinh du ý có ghi: Phân biệt 5 độ này vốn là do ngài Tăng Duệ lập ra. Nếu như vậy thì nhất định là ngài dựa theo thuyết của ngài Tăng Duệ.

Lại nữa, ngài đối với tịnh độ trong 5 độ, lại chia làm 4 loại: 1. Phàm thánh đồng cư độ, 2. Đại tiểu đồng trụ độ, 3. Độc bồ-tát sở trụ độ, 4. Chư Phật độc cư độ. Đại thừa huyền luận quyển 5 giải thích:

1. Phàm thánh đồng cư độ, như khi Di-lặc xuất thế thì phàm thánh cùng cư trú trong tịnh độ giới nội, lại như phàm phu cùng với thánh hiền tam thừa đồng vãng sinh về chín phẩm ở thế giới Tây phương Cực Lạc.

2. Đại tiểu đồng trụ độ là cõi mà A-la-hán, Bích-chi-phật và đại lực bồ-tát xả thân phần đoạn ở trong ba cõi mà sinh về tịnh độ giới ngoại, tức hàng nhị thừa Tiểu thừa và bồ-tát Đại thừa đồng cư trú, cho nên gọi là Đại tiểu đồng trụ độ.

3. Độc bồ-tát sở trụ độ là cõi chỉ có chúng bồ-tát cư trú, không có danh tự nhị thừa, như thế giới Hương Tích, thế giới Thất Bảo.

4. Chư Phật độc cư độ là cõi chỉ có Phật cư trú, kinh Nhân vương nói: “Tam hiền thập thánh trụ quả báo, chỉ có Phật một mình cư trú ở tịnh độ”.

Lại nữa, Pháp hoa nghĩa sớ quyển 10 có ghi: “Ba thân của Phật đều có độ của mỗi thân, phân biệt thành Pháp thân độ, Báo thân độ và Hóa thân độ”.

Pháp thân độ tức Thật tướng độ như kinh Phổ Hiền quán ghi: “Thích-ca Mâu-ni còn gọi là Tì-lô-giá-na biến khắp mọi nơi, chỗ Phật ấy trụ gọi là Thường tịch quang”. Kinh Nhân vương bát-nhã ghi: “Chỉ có riêng một mình Phật cư trú ở tịnh độ”. Kinh Bồ-tát anh lạc ghi: “Cũng lấy trung đạo đệ nhất nghĩa gọi là Pháp thân độ”, đều chỉ cho độ này.

Báo thân độ, báo thân tức là ứng thân, có 2 loại: nội ứng thân và ngoại ứng thân. Nội ứng thân tương ưng với pháp thân, cũng thuộc pháp thân và với pháp thân đồng độ. Pháp hoa luận ghi: “Tịnh độ của Ta không bị hủy hoại mà chúng sinh thấy cháy rụi, chân thật tịnh độ của báo Phật Như Lai thuộc Đệ nhất nghĩa”, tức là chỉ cho độ này. Ngoại ứng thânbáo thântịnh độ thành Phật giáo hóa đại bồ-tát, lấy bảy thứ báu làm Tịnh Độ, tuy không bị kiếp hỏa thiêu cháy nhưng cuối cùng cũng có diệt tận, không thể xem đồng với Đệ nhất nghĩa đế. Hóa thân độ như cõi hóa thân của Thích-ca v.v… cư trú, có sự khác biệt bảy báu với đất cát, thông cả tịnh và uế nhưng đều có thể hoại diệt, cho nên gọi là Hóa độ.

Đối với ba độ này, nếu phân ra thường và vô thường thì Pháp thân độ chỉ có thường, chẳng có vô thường; Hóa thân độ chỉ có vô thường chứ không có thường; Ứng thân độ cũng thường cũng vô thường, nội ứng thân độ là thường, ngoại ứng thânvô thường. Nếu phân hai độ tịnh và uế: hai cõi Pháp thânBáo thân là độ của tịnh hóa thân bất định hoặc tịnh hoặc uế. Lại nữa, ngài Cát Tạng lại căn cứ vào hai môn Bản và Tích để phân loại tịnh độ: Pháp thân độ là Bản độ, hai độ Báo và Hóa là Tích độ. Pháp hoa huyền luận quyển 9 của ngài ghi: “Nếu hợp ba thân làm hai thân Bản và Tích thì Pháp thân thuộc Bản độ, hai thân kia thuộc Tích độ”. Trong Tịnh Danh huyền luận quyển 9 ghi: “Độ tuy vô lượng nhưng không ra ngoài ba loại: Pháp thân thuộc Bản độ và hai độ Báo, Ứng thuộc Tích độ”, tức là chỉ cho thuyết này.

Ngài Cát Tạng chia tịnh độ thành bốn loại, lại luận về tịnh độ của Phật có ba độ và hai độ khác. Đại thể là noi theo thuyết của ngài Huệ Viễn và ngài Trí Khải, bốn loại tịnh độ được nói trong đó, hầu như giống hoàn toàn với thuyết của ngài Trí Khải. Phàm thánh đồng cư độ thì cả hai thuyết đều đồng tên; Đại tiểu đồng trụ độ, ngài Trí Giả gọi là Phương tiện hữu dư độ; Độc bồ-tát sở trụ độ, ngài Trí Giả gọi là Thật báo trang nghiêm độ; Chư Phật độc cư độ, ngài Trí Giả gọi là Thường tịch quang độ. Trong đó đem Phương tiện hữu dư độ đổi tên thành Đại tiểu đồng trụ độ, đại lực bồ-tát cũng trụ trong đó, đây là điểm khác của ngài. Đây chính là căn cứ kinh Thắng Man, được gọi là thuyết Biến dịch sinh tử, đem độ này làm chỗ cư trú của người biến dịch bất khả tư nghị.

 

Ngài Cát Tạng kém ngài Trí Giả hơn hai mươi tuổi, tương truyền ngài từng nghe ngài Trí Giả giảng pháp, sự phân loại tịnh độ này có lẽ dựa vào thuyết của ngài Trí Giả chăng! Lại nữa, tịnh độ của Phật có ba loại Pháp, Báo và Hóa cũng vốn là thuyết của các ngài Huệ Viễn v.v… đã đề xướng. Thuyết hai độ Bản và Tích thông với nghĩa hai độ Chân và Ứng của ngài Huệ Viễn. Thuyết Nội ứng thân và Ngoại ứng thân cũng có thể thấy đồng một nghĩa với Pháp ứng độ và Báo ứng độ trong Viên ứng độ của ngài Huệ Viễn, cho nên có thể gọi luận điểm về Tịnh độ luận của ngài Cát Tạng, phần nhiều kế thừa thuyết của người xưa.

Tiết 3: Phán định về Tịnh độ Di-đà

Liên quan đến Tịnh độ Di-đà, ngài Cát Tạng cho rằng Phàm thánh đồng cư độ là một trong bốn độ thì đồng với thuyết của ngài Trí Khải. Vì phàm phu đủ thứ trói buộc mà cũng được vãng sinh cõi ấy, cõi ấy phàm thánh ở chung, dựa theo người cư trú mà gọi là đồng cư độ. Nhưng nếu căn cứ theo bốn mươi tám lời nguyện của Đức Phật A-di-đà phát nguyện khi còn tu nhân, trang nghiêm cõi nước mình thì cõi ấy là Báo độ, lại có thể gọi là Ứng độ. Liên quan đến vấn đề này, Quán kinh nghĩa sớ nêu ra dị thuyết của Bắc địa và Nam địa. Như trong sớ này đã ghi: “Sư ở Giang Nam nói: Báo độ này là do bồ-tát Pháp Tạngđịa vị phàm phu tu tích không quán đã phát bốn mươi tám nguyện mà thành”. Người Bắc địa nói: “Ở giai vị pháp thân Bát địa trở lên phát nguyện mà thành cho nên gọi là Báo độ”.

Ngài Cát Tạng lập ra hai môn Thông và Biệt để luận, theo Thông môn thì tất cả quốc độ chỉ là thù nhân, nên có thể gọi là Báo độ. Nhưng theo Biệt môn thì không như vậy, vì bồ-tát Pháp Tạng có hai môn Bản và Tích. Theo Tích môn mà luận thì ở địa vị phàm phu lấy nguyện để tạo độ, có thể gọi là Báo độ, nên kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Đức Phật ấy thành Phật đến nay đã trải qua mười kiếp, nay đang ở thế giới Vô Lượng Thọ”. Nếu luận theo Bản môn thì bồ-tát này ở địa vị Đẳng Giác, không còn tạo nghiệp cho nên chẳng phải là Báo độ mà chỉ là cõi ứng hiện. Vì vậy, kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Nay Ngài thành Phật, cõi nước bảy báu tự nhiên hiện ra”. Đây là căn cứ vào giai của bồ-tát Pháp Tạng phát nguyện nên phân biệt hai độ Báo và Ứng. Nếu căn cứ vào ý nghĩa của Tích môn trong kinh Pháp hoa thì khi bồ-tát kia ở địa vị phàm phu đã phát nguyện, thực hành ba-la-mật nên cõi nước được tạo ra là nhờ cảm báo của nhân hạnh mà thành, vì vậy gọi cõi ấy là Báo độ của Phật. Nếu theo ý nghĩa của Bản môn thì bồ-tát từ Bát địa trở lên, ở địa vị Đẳng Giác đã phát nguyện, bồ-tát này sau đó không còn tạo nghiệp để cảm quả nên cõi ấy gọi là Ứng độ. Đây chính là chiết trung hai thuyết của Bắc Địa và Nam Địa, chủ trương Phật và chúng sinh đều có tịnh độ, chúng sinh tu nhân thì sinh về cõi nước ấy, đây là Báo độ của chúng sinh, đồng thời chính là Ứng độ của Phật. Nói cách khác, chúng sinh tu nhân thì được cảm quả sinh vào Ứng độ của Phật.

Lại nữa, tịnh độ Di-đà ở trong phần đoạn sinh tửbiến dịch sinh tử thì nó thuộc vào loại nào? Quán kinh nghĩa sớ cũng nêu ra hai thuyết của Bắc Địa và Nam Địa. Thuyết của Nam Địa nói: “Do nhân sở hành ở trong hạng phàm phu cạn cợt mà được, nên quả báo không được tốt đẹp, vì thế thuộc về phần đoạn”. Thuyết của Bắc Địa nói: “Đây là sở hành và sở tạo của bồ-tát ở giai vị cao thâm từ Bát địa trở lên đã tạo, cho nên gọi là quả báo biến dịch bất khả nghị”. Ngài Cát Tạng lấy thuyết hạng phàm phu phát nguyện của Nam Địa, vì thọ mạng ở cõi kia tuy vô lượng nhưng lại có kỳ hạn chung tận, cho nên thuộc về phần đoạn.

Lại nữa, cõi Vô Lượng Thọ có thuộc về ba cõi hay không, cũng có hai thuyết:

1. Bắc Địa y theo luận Đại trí độ nên nói: Vì vô dục nên chẳng phải cõi Dục, vì địa cư nên chẳng phải cõi Sắc, vì có sắc nên chẳng phải cõi Vô Sắc, nên chủ trương cõi ấy chẳng thuộc ba cõi.

2. Nam Địa nói: Vì chưa dứt phiền não trong ba cõi mà được vãng sinh nên thuộc ba cõi. Trí luận nói: Vô dục chẳng phải thể khôngphiền não, nhưng chỉ vì không có sự hiện hành của phiền não nên nói là Vô dục.

Ngài Cát Tạng đối với việc này chia ra làm hai loại là ba cõi phương tiệnba cõi thật sinh. Theo cái thấy của hạng phàm phu nghiệp uế thì tịnh độ Di-đà thuộc ba cõi phương tiện. Như kinh Vô Lượng Thọ có ghi: “Cõi trời Ba Mươi Ba nương vào đâu mà trụ? Đức Phật nói: Nương nghiệp báo mà trụ”. Lại nữa, kinh Hoa nghiêm ghi cõi ấy là tịnh độ thuộc phẩm thấp nhất trong trăm vạn a-tăng-kỳ phẩm. Trong đây, tuy không chỉ rõ là luận sư của Nam Địa hay Bắc Địa nhưng có thể biết ngài Cát Tạng chủ yếu theo thuyết của luận sư Nam Địa.

Tiết 4: Sinh nhân tịnh độ và giai vị của người vãng sinh chín phẩm

Ngài Cát Tạng đối với nghiệp nhân vãng sinh tịnh độ chia ra làm hai môn Thông và Biệt. Thuyết Thông môn thì tổng hợp ba phúc, mười sáu pháp quán làm sinh nhân tịnh độ. Thuyết Biệt môn thì lấy tâm bồ-đề làm nghiệp chủ của nó, còn các điều thiện khác như ba phúc, mười sáu pháp quán v.v…dùng làm nghiệp duyên. Trong đó, tâm bồ-đề làm nghiệp chủ vì tâm bồ-đề chính là chính nhân để đạt đến quả vị Phật. Chúng sinh nghe nói con đường thành Phật dài xa, phần nhiều sinh tâm thoái lui nên tạm chỉ ra quả gần ở tịnh độ để làm duyên tiến đến quả Phật, cho nên vãng sinh tịnh độ là lấy tâm bồ-đề làm chủ. Điều này do ngài Cát Tạng kế thừa ý của hai ngài Đàm LoanHuệ Viễn rồi nhấn mạnh thêm. Nghiệp duyên chính là chỉ ba phúc, mười sáu pháp quán.

Liên quan đến ba phúc, ngài Cát Tạng cho rằng ‘thế phúc’ là điều thiện của hạng phàm phuthế gian; ‘giới phúc’ là điều thiện của Tiểu thừa; ‘hạnh phúc’ là điều thiện của Đại thừa. Nhưng ba phúc này, hoặc ba người tu ba phúc riêng biệt, hoặc một người tu cả ba phúc. Một người tu thì ban đầu tu điều thiện ở thế gian, kế nhập vào Phật pháp thụ tam quy, ngũ giới, rồi từ Tiểu chuyển sang Đại, tu trì ‘hạnh phúc’. Người tu ba phúc này được sinh Tây phương, vì ba loại phúc này đều làm cho tâm họ thanh tịnh. ‘Tâm tịnh nên cõi Phật tịnh’ trong kinh Duy-ma là nói lý này.

Nói về mười sáu pháp quán: mười ba pháp quán đầu đều là quán về quả, gọi chung là quán Vô Lượng Thọ. Ba pháp quán sau quán về nhân gọi là quán Cửu bối. Pháp quán có 2 loại: sinh diệtbất sinh diệt. Quán sinh diệt thì quán pháp sinh diệt của các hiện tượng; quán bất sinh diệt thì quán chung lý của thật tướng bất sinh diệt. Hai pháp quán này hoặc hai người tu hai quán riêng biệt, hoặc một người tu cả hai quán. Hai người tu hai quán riêng biệt là người Tiểu thừa tu quán sinh diệt, người Đại thừa tu quán bất sinh diệt. Một người tu cả hai quán thì trong Đại thừa đầy đủ hai quán này, tức là quán ứng thân Đức Phật sinh ở Vương cung, diệt độ tại Song Lâm là quán sinh diệt; quán pháp bất sinh ở Vương cung, không diệt độ tại Song Lâm là quán bất sinh diệt. Quán được nói trong Quán kinh tức là hai quán sinh diệtkhông sinh diệt của Đại thừa. Tuy đủ cả hai quán nhưng chỉ nói quán sinh diệt, vì chủ yếu là quán quả sinh diệt của năm thứ: kiếp số dài ngắn, vị hóa chủ, quốc độ, giáo mônđồ chúng ở nước đó.

Trong mười sáu pháp quán, mười ba pháp quán trước gọi chung là quán Vô Lượng Thọ nhưng không gọi quán Phật Vô Lượng Thọ, trong các quán ấy không chỉ niệm Phật, mà còn quán rộng về quả của năm thứ thanh tịnh như thời tiết v.v… Lại nữa, quán Vô Lượng Thọ này có thể gọi là Niệm Phật tam-muội, nhưng niệm Phật cũng có phân biệt niệm pháp thân Phật, niệm sinh thân Phật. Niệm thật tướng của các pháp gọi là niệm pháp thân Phật, niệm ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp của Như Lai thì gọi là niệm sinh thân Phật. Nay quán Vô Lượng Thọ trong kinh này chính là quán các tướng hảo quang minh của Như Lai, tức là niệm sinh thân Phật, chẳng phải niệm pháp thân Phật. Niệm Phật tam-muội có công năng trị hết tất cả ba độc. Vì thế, luận Đại trí độ có ghi: Các tam-muội khác hoặc trị sân mà chẳng trị nghiệp, hoặc trị nghiệp mà chẳng trị báo; nhưng Niệm Phật tam-muội trị hết tất cả, trị hết ba độc, ba chướng; nghĩa là tam-muội này có công năng đối trị tất cả hoặc chướng, nghiệp chướngbáo chướng. Tu tam-muội này thì có thể diệt được tội chướng, vãng sinh tịnh độ, tuyên dương công năng Niệm Phật tam-muội.

Quán Cửu bối là ba pháp quán sau, quán nhân vãng sinh của người sinh ở tam bối cửu phẩm. Quán thượng bối là quán người Đại thừa tu thiện Đại thừa, đắc quả Đại thừa. Quán trung bối là quán người Tiểu thừa tu thiện Tiểu thừa, đắc quả Tiểu thừa. Quán hạ bối là quán chúng sinh làm ác không làm thiện, khi sắp mạng chung nhờ nghe pháp vi diệu của Đại thừađắc quả Đại thừa. Pháp quán này đồng một ý nghĩa với pháp quán tha sinh của ngài Huệ Viễn, tức là y theo kinh mà được cửu bối này nên đều gọi là quán.

Lại nữa, ngài Cát Tạng phán định giai vị của người vãng sinh chín phẩm: Người thượng phẩm thượng sinh về cõi Cực Lạc thì đắc Vô sinh pháp nhẫn, Vô sinh pháp nhẫn tuy thông với Sơ địa, nhưng nhờ người hạ phẩm thượng sinh đắc pháp Vô sinhSơ địa, biết pháp Vô sinh của thượng phẩm thượng sinh, ắt chỉ cho sở đắc ở giai vị Thất địa. Nhưng lại có người vượt giai vị như Thích-Ca thành Phật trước Di-lặc thì giai vị ấy thật không thể biết được. Người trung phẩm thượng sinh về cõi ấy trải qua một tiểu kiếp đắc Vô sinh pháp nhẫn, Vô sinh pháp nhẫn này cũng chỉ cho sở đắc ở giai vị Thất địa, cho nên biết người này đã là bồ-tát Địa thượng. Người hạ phẩm thượng sinh sinh về cõi ấy, đắc Vô sinh pháp nhẫnSơ địa, có thể biết người này là Tam hiền trước thập địa. Lại nữa, ba phẩm của hạ bối dựa theo sự nặng nhẹ của việc làm ác mà phân phẩm vị, tức thượng phẩm hạ sinh làm mười điều ác, trung phẩm hạ sinh phạm bốn tội trọng, hạ phẩm hạ sinh là người tạo năm tội nghịch. Nếu người phỉ báng pháp, xiển đề không sinh tịnh độ, do nghe pháp tịnh độkhông sinh lòng tin, cho nên không được vãng sinh. Lại nữa, người Tiểu thừa nghe nói có mười phương chư Phật mà họ không tin, cũng không được vãng sinh, cho nên những hạng người này đều không thuộc trong chín phẩm. Nhưng trong Quán kinh sớ chỉ luận về căn cơ của hạng thượng bối và hạ bối này, chưa nêu ba phẩm ở trung bối, e rằng y theo văn kinh, thượng phẩm trung sinh là bậc thánh nhân ở ba quả trước, còn hai phẩm trung trung, trung hạ là nội phàm, ngoại phàm ở bậc kiến đạo trở lên, các phẩm này chỉ theo quả sở đắc sau khi vãng sinh, phán định giai vị chín phẩm về cơ bản thì giống với thuyết của ngài Huệ Viễn.

[1] Bác sĩ đệ tử博士弟子: là chức quan văn đời Tiền Hán

[2] Y-bồ-tắc伊蒲塞 (S: upāsaka): tức ưu-bà-tắc dịch là cư sĩ nam, ở đây chỉ cho Sở Vương Anh

[3] Tang-môn 桑門:tức là sa-môn (S: śramaṇa):chỉ cho người xuất gia đã thụ giới Cụ túc trong đạo Phật.

[4] Lục Kinh: sáu kinh của Nho gia: kinh Thi, kinh Thư. Kinh Lễ, kinh Nhạc. kinh Dịch, kinh Xuân Thu

[5]. Đại Tiên chỉ cho Đức Phật

[6] Ngũ trí: 1. Phật trí, 2. Bất tư nghì trí, 3. Bất khả xưng trí,.4. Đại thừa quảng trí, 5. Vô lượng vô luân tối thắng trí (kinh Vô Lượng Thọ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21821)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
(Xem: 20534)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22424)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18842)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27137)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18822)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 20039)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38171)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20206)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28431)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46518)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15515)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65902)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13810)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18734)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15606)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14635)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18817)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12692)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17711)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25586)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38819)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17812)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11297)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18714)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17502)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13308)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13385)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17667)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24427)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12459)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13878)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13053)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12961)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14249)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14676)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21158)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22749)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 30045)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13927)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18304)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17128)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12698)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30806)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22899)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14722)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13056)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12816)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12570)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13118)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16403)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15323)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23900)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16246)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29089)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20362)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15630)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37350)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45114)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 37028)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant