Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Xuân Trong Ta

22 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 11674)
Xuân Trong Ta

Xuân Trong Ta


hoa-mai-2Nhắc đến tết chúng ta cảm nhận ngay cái tiết trời ấm áp, là mùa xuân xanh tốt , trăm hoa đua nở. Hoa cúc đủ màu, hoa mai vàng đầy trước ngõ, nhà nhà tự trồng lấy hay tìm mua những cây hoa kiểng thật đẹp ở ngoài chợ rồi mang về trưng bày trước nhà, quanh sân trong những ngày xuân. Cảnh sinh hoạt từ nhà nghèo đến nhà giàu, tất cả đều vui xuân nhộn nhịp, sống động, bình an, vui tươi và hạnh phúc khắp nơi. Đâu đâu, chốn nào cũng hừng hực những nồi bánh tét, bánh chưng. Ai đó trong chúng ta có đi làm ăn xa nhà, tới ngày tết cũng đều luôn nghĩ nhớ về quê hương xứ sở, nơi sanh thành lớn lên, rồi cũng tranh thủ về ăn tết cùng với gia đình, dù ở cách xa ngàn dặm. Hay ai đó trong chúng tahoàn cảnh đất nước, vì chiến tranh loạn lạc, vì cuộc sống sanh nhai phải rời xa quê hương đất tổ để tìm cuộc sống mới nhưng tới thời điểm tết ai ai cũng nghĩ nhớ về quê nhà, cũng tổ chức hội xuân để sưởi ấm lòng mình khi xa xứ.

Mỗi độ tháng này người người gọi.
Tết đã về rồi xuân bao la
Trong tôi chợt nhớ đến quê nhà
Hoa cúc, mai vàng, đầy trước ngõ
Trẻ thơ khoe nhau áo mới lạ

Bánh tét bánh chưng, cổ đầy nhà
Lư hương chân đèn bóng khắp cả
Trong ngoài trước sau đều bát ngát
Xuân vẫn còn đây, hay đã qua?

Xuân xứ người khác xuân quê ta
Xuân Bắc Âu tuyết rơi là đà
Cũng có hương hoa, cùng bánh mứt
Nhưng đâu ấm bằng xuân quê ta

Xuân ta, xuân tây, xuân không lạ
Tất cả mùa xuân chỉ một nhà
Ai bảo tìm xuân ngoài ngõ vắng
Chỉ một mùa xuân ở trong ta.

Hãy sống với xuân từng sát na
Xuân khắp vũ trụ, xuân muôn nhà
Đừng để xuân đi rồi tìm kiếm.
Trong ta mùa xuân vẫn thiết tha.

Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa
An lạc nào hơn xuân trong nhà
Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc
Hành nụ cười này, Xuân trong ta.

Đôn Hậu, 9/02-2007
TK Thích Viên Giác TVGPhiLong

Đứng trên bình điện thế gian mà nhìn, khi chúng ta gặp những hoàn cảnh vui buồn , đến đi , được mất thì chúng ta chỉ biết cảm nhận cái vui, cái buồn, cái đến, cái đi , cái được, cái mất để rồi chúng ta thản nhiên, tự tại, an hưởng, vui chơi phóng túng ngày qua ngày. Sống như vậy chẳng biết lo nghĩ cho ngày mai nên đem tâm quan niệm rằng chết là hết, nhưng không có cái gì trên cõi đời này chết, mất đi là hết cả. Tất cả vạn vật trong vũ trụ này đều phải bị ảnh hưởng hay phải bị chi phối bởi định luật luân hồi,vô thường, nghiệp cảm.
Từ đất mọc lên cây. Cây xanh lớn lên cằn cỏi, héo tàn, cây xanh hết nhựa sống thì phải chết mà khi chết rồi thì sẽ mục đi trở lại thành đất và cũng từ đất mọc lên thành cây. Nước từ ao, hồ, sông, biển gặp nắng bốc hơi lên thành mây, mây gặp lạnh cô đọng lại thành mưa, rồi rơi xuống ao hồ hay biển cả, sông ngòi rồi cứ lên xuống như vậy từ đời này qua đời khác, từ kiếp này qua kiếp khác, cứ như vậy mà lưu chuyển. Chúng ta con người cũng như vậy, chết không phải là hết, mà chỉ là một hình thức sinh diệt, thay hình, đổi dạng từ một trạng thái này qua một trạng thái khác, từ một cảnh giới này qua một cảnh giới khác, cứ như vậy mà trôi lăn mãi trong lục đạo (thiên, nhân, a tu la, địa ngục, ngạ qủy, súc sanh) mà thôi. Những sự kiện nêu trên cho chúng ta thâý. Ai ai trong chúng ta cũng phải bị chi phối bởi nghiệp báo luân hồi. Đúng là « Xuân đã qua rồi vẫn còn xuân » Mùa xuân năm nay đến rồi sẽ qua; nhưng rồi mùa xuân cũng sẽ trở lại và sẽ trở lại từ đời này qua đời khác. Nhưng mà thật kỳ lạ thay, mùa xuân vẫn đến và vẫn trôi qua nhưng không mùa xuân nào giống mùa xuân nào ( biệt nghiệp, thân tướng của chúng ta cũng đâu có ai giống ai đâu). Nghĩ đến xuân, nhớ đến tết. Nếu chúng ta để tâm quán triệt lý vô thường, sanh, trụ, dị, diệt; để tìm về cái Chơn thường an vui tịch tịnh qua câu « Xuân đã qua rồi vẫn còn xuân » . Xuân qua nhưng xuân không mất mà xuân sẽ trở lại; vậy là vẫn còn xuân. 

Nhắc đến đây chúng ta không thể không nhớ đến một vị thiền sư sống vào đời nhà Lý, khi Ngài biết vô thường đã đến với Ngài, giờ thâu thần tịch diệt gần kề, Ngài gọi chư tăng ni Phật tử vào phương trượng để khai thị, dạy bảo bằng một bài thi kệ thật tuyệt tác : « Xuân khứ bách hoa lạc. Xuân đáo bách hoa khai. Sự trục nhãn tiền qúa. Lão tùng đầu thượng lai. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận. Đình tiền tạc dạ nhất chi mai ». Nghĩa là: Mùa xuân đi qua trăm hoa cũng phải rụng. Mùa xuân trở lại thì trăm hoa đua nhau nở. Sự việc ẩn hiện trước mắt chúng ta. Rồi cũng phải gìa lụn, bạc màu. Nhưng đừng nghĩ rằng xuân đi rồi thì hoa rụng hết. Trước sân chùa vẫn nở một nụ hoa mai vàng. Đó chính là thiền sư Mãn Giác.Tục danh của Ngài là Lý Trường, sanh năm 1052, thị tịch năm 1096. Thọ 45 tuổi. Khi còn thiếu thời Ngài đã thông cả nho giáoPhật giáo. Mới 20 tuổi Ngài được nhà vua triệu vô cung để dạy cho các hoàng tử. Lúc bấy giờ vua và hoàng hậu rất tôn kính Ngài nên đã cho xây riêng cho Ngài một ngôi chùa để Ngài an tâm hành trì kinh điển. Ngài xả bỏ báo thân với lứa tuổi 45 thật qúa sớm. Tiếc thay cho hàng hậu học bị mất đi một bậc Chơn Sư. Cứ mỗi độ mùa xuân về không ai trong chúng ta có thể quên đi Thiền sư Thích Mãn Giác qua thi kệ «Cáo Tật Thị Chúng»
Là một chúng sanh, nhất là con người khi chúng ta đã có ý thức thì chúng ta biết phân biệt, biết cảm nhận, biết lãnh thọ cái vui, cái buồn, thương ghét, còn mất, có không, đến đi, phải trái, trắng đen, sáng tối tất cả đều nằm trong thế gian pháp, nhị nguyên ( hai mặt đối đãi nhau) hay tục đế ( sự thật của cuộc đời ). Ở xứ người chúng ta từ trẻ đến gìa ai ai cũng nô nức tổ chức tết, đón mừng năm mới. Nhưng cái vui ấy làm sao đầm ấm bằng xuân ở quê hương. Vâng! bao nhiêu vẻ đẹp,niềm vui, hưởng lạc, sung túc, vui buồn gì đi nữa cũng không ra khỏi thế tục, tất cả không nằm ngoài thập nhịp nhân duyên, Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Đây là mười hai cái xích nó móc với nhau như một guồng máy vận hành đưa kiếp người quanh quẫn trong sanh tử luân hồi đau khổ. Bởi vì chúng ta sống trong sự đối đãi, so sánh, phân biệt , khen chê. «Xuân xứ người khác xuân quê ta. Xuân bắc âu tuyết rơi là đà, cũng có hương hoa cùng bánh mứt nhưng đâu ấm bằng xuân quê hương». Chúng ta chưa biết tu tập, đang sống trong tục đế, cho nên chúng ta còn phân biệt, khen chê, bị mười hai nhân duyên nó xích với nhau; nên chúng ta còn khổ hoài hoài. Trong thập nhị nhân duyên, duyên thứ tư là danh sắc, ở cái duyên này phần đông ai cũng dính mắc, khó mà thoát khỏi, chính vì chúng ta bị dính mắc vào ngũ uẫn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên chúng ta bị đau khổ. Còn duyên thứ năm cũng làm cho chúng ta đắm đuối không kém, đó là lục nhập. Lục nhập là sáu căn: Nhãn,nhĩ, tỷ,thiệt,thân và ý. Sáu căn này tiếp xúc với sáu trần, duyên với sáu thức làm cho chúng ta say đắm trong ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy. Chính ở nơi ngũ dục này nó khiến chúng ta chạy theo danh lợi, tiền tài, sắc đẹp để rồi gây biết bao nhiêu sự khổ lụy cho chính bản thân mình và cho những người chung quanh mình,cho xã hội, cho quốc gia, nói rộng hơn là gây đau khổ cho cả nhân loại. Nếu như chúng ta biết vâng lời Phật dạy, quay về nương tựa ba ngôi báu Phật, Pháp Tăng, để rồi từng bước một tu tập bước lên từng nấc thang giải thoát để nhận diện được lý vô thường, đạt tới thánh qủa Tư đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán. Hay thấu triệt được Chơn Như theo Bồ tát đạo để bước lên Phật qủa thì sẽ không còn đau khổ nữa.
Thơ : Không Vướng Bụi Trần
Mắt trông thấy sắc rồi thôi
Tai nghe thấy tiếng, nghe rồi thì không
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
Nhẹ nhàng ta bước ra vòng trần ai
Bài thơ này muốn nhắc nhở chúng ta đừng dính mắc vào mười hai nhân duyên, tránh xa danh sắc thì sẽ được thong dong tự tại.

Thơ: Ruồi Than Trong Lưới Nhện
Tham dục lao vào chốn tử sanh
Vô minh nghiệp thức dẫn vòng quanh
Ao tù ngũ trược càng thêm trược
Khổ khổ thì ra cũng tại mình .
Bài thơ «Ruồi Than Trong Lưới Nhện» một trong nhiều bài thơ hay trong tuyển tập « Góp Nhặt Lá Vàng » của Hòa thượng Thích Chơn Điền, bút pháp của Ngài là Ngốc Tử thì sao? Tuyệt vời qúa, Ngài nhắc chúng ta đừng để ngũ dụcsai khiến, để rồi khổ; khổ hay sướng, vui hay buồn cũng do mình cả. Hãy biết thực hành pháp thiểu dục, tri túc để được an vui, dù chúng ta có nằm dưới đất, sống nhà tranh vách đất, chúng ta cũng thấy hạnh phúc, an vui, khi chúng ta biết đủ và không tham. Có như vậy thì mùa xuân sẽ nở rộ trong ta và khắp muôn nơi.
«Xuân ta, xuân tây đến rồi đì» Vì chúng ta đứng trên phương điện tục đế mà nhìn; nên mới có phân biệt đến và đi của mùa xuân, chứ trên thực tế mùa xuân chẳng đến cũng chẳng đi.Trong mắt thiền sư mới tu luyện mười năm đầu thì thấy núi là núi, sông là sông.Tu mười năm sau thì thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông. Rồi mười năm nữa trôi qua, lúc này thiền sư thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Sao lạ quá nhỉ ? Vâng không có gì lạ hết, có tu tập sẽ thấy không đến, không đi, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không lão,không bệnh, không chết. Đó là cái lý tánh Bát Nhã, Chơn Như, cái nhìn của người tu là như vậy. Người có tu tập hành trì nhìn vạn vật rất thản nhiên, tự tạibình dị, khi chưa tu thấy cảnh vật khác, khi có tu thì thấy cảnh vật khác, khác nhiều lắm. Rất đơn giản để thấy, chúng ta đơn cử một sự việc như thế này: Một người hoàn toàn chưa biết đạo Phật, bây giờ có nhân duyên biết đến giáo lý Phật Đà sao mà thanh thoát quá, cao siêu quá, thoát tục qúa, hạnh phúc quá, liền muốn hành trì, tu tập, đi chùa, lễ Phật, tụng kinh , gỏ mõ, làm công qủa, tạo phước, ban đầu rất là tinh tấn, an nhiên, tự tại. Nhưng tu tập một thời gian sau thì bồ đề gai nổi lên, vì có những sự việc bất như ý, thấy sao mà một số người đồng đạo tu không đúng như lời Phật dạy, để rồi sanh tâm phiền não, khổ đau nổi lên. Rồi sanh tâm xa lánh chùa chiền, xa lánh thầy cô và bạn đồng tu. Cho nên chúng tôi cũng có bài thơ «Vào Chùa» để khuyến tấn chính mình và mọi người:
«Mẹ ơi ngoài đó con cứ tưởng
Vào chùa an lạc tựa chao tương
Ngờ đâu vào đây con mới biết
Nhân Ngã thị phi là chuyện thường.

Bước đầu con thấy trời sao lạ
Vào Chùa sao còn chuyện hơn thua
Mắt con ràng rụa từng giọt lệ
Muốn về với mẹ cảnh bán mua

Cảnh bán mua không phải cảnh Chùa
Vào chùa chớ nghĩ chuyện hơn thua
Người ta động tâm con chớ động
Thế mới thật là cảnh trong chùa.

Người ta động tâm con chớ động
Thế mới thật là cảnh trong Chùa.»

Nhưng rồi mặc dù có sóng gió ( bát phong ), có chao đảo trên bước đường tu tập, đầy dẫy những ưu phiền; Nhưng vẫn còn duyên phước nên cố gắng tu tậphành trì, nghe kinh, tham khảo sâu vào giáo lý Phật đà. Sau một thời gian thâm nhập kinh tạng, tham, sân, si, phiễn não cũng được hoán chuyễn nhờ đó mà thân tâm được an lạc, hiền hòa; nhờ vậy mà tâm tánh trở lại như hồi mới phát tâm tu tập. Như thế đó, một hành gỉa tu một thời gian sau sẽ thấy khác, mình tu thì cứ lo tu, ai đó làm gì thì cứ làm. Nghiệp ai nấy trả, qủa ai nấy hưởng. Không nên nhìn lỗi của người này, phải của người kia. Không ngó qua, nhìn lại để kiểm soát lỗi người. Được như vậy mới cảm nhận được tâm an lạc, giải thoát, an nhiên, tự tại, thoải mái, hạnh phúc. Đó chính là «Xuân Trong Ta».
«Thời gian, không gian xuân khác gì ? Ai bảo tìm xuân ngoài ngõ vắng, trong ta sẳn có một mùa xuân». Thời gian thì vô tận, điểm bắt đầu không có mà cũng chẳng có chỗ cuối cùng. Không gian thì bao la, rộng lớn, không có thước để đo mà cũng không có con số để tính. Thời giankhông gian đã có từ vô thỉ, vô chung. Từ Đạo Hạnh thiền sư ( 1072 – 1116 ), cũng nói lên cái thực tại hiện hữu từ muôn kiếp, qua bài thơ:
« Tác hữu trần sa hữu.
Vi không nhất thiết không.
Hữu không như thủy nguyệt.
Vật trước hữu không không.
Nghĩa là: « Có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không, đố xem ánh nguyệt dòng sông, nào ai hay biết có không là gì ?. Cho chúng tôi cũng xin mạo muội phỏng dịch bài thơ đúng năm chữ theo nguyên văn:
«Có đã có từ lâu.
Không tất cả đều không.
Có không trăng đáy nước.
Ai bảo có, bảo không ?».
Mọi sự việc đã hiện hữu như vậy rồi, thời giankhông gian thì bất di bất dịch không thay đổi, thì mùa xuân cũng như thế. Xuân vẫn là xuân, nơi đâu cũng giống nhau cả. Nếu mùa xuân mà có khác nhau thì cũng chỉ vì cái tâm vọng động của chúng ta bị dính mắc, phân biệt cho nên mới thấy «Xuân» nơi này khác với «xuân» nơi kia. « xuân xứ người khác với xuân quê ta. Xuân bắc Âu tuyết rơi là đà ». Thật sự mùa xuân vĩnh viễn đã nằm sẳn trong ta rồi, hạnh phúc đã có sẳn trong mỗi chúng ta rồi. Bởi vì chúng ta không nhận biết đó thôi; nên mới duyên theo ngũ dục mà chạy đi tìm kiếm mùa xuân, hạnh phúc bên ngoài. « Ai bảo tìm xuân ngoài ngõ vắng, trong ta sẳn có một mùa xuân ».
Mọi người ơi! Hãy giữ lấy những gì chúng ta đang có, hãy biết tin yêu, qúi trọng cái hạnh phúc dù nhỏ nhất mà chúng ta đang có. Hãy sống chung thủy và thật lòng với nhau khi ta đang sống hạnh phúc, ta đang có một gia đình đầm ấm, hãy biết mình có như vậy, được như vậy, hạnh phúc như vậy là đủ rồi, là hài lòng lắm rồi. Chớ nên tham lam, đòi hỏi thêm cho nhiều để rồi thất vọng, ê chề, đau khổ, bất hạnh. Đừng để một khi sự việc đổ vỡ rồi mới biết hối hận, muốn quay trở lại thì coi chừng việc đã muộn màng.
hoa_mai_5
Như vậy thì chúng ta nên: « Hãy sống với xuân từng sát naAn lạc nào hơn xuân trong nhà. Đừng để xuân đi rồi tìm kiếm.Trong ta sẳn có một mùa xuân». Phật dạy hiện pháp lạc trú, được đề cập trong các bài kinh Nhất dạ hiền giả. “Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, tương lai lại chưa đến, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính ở đây…”. là phương pháp dứt trừ vọng tưởng, làm chủ tâm ý; không mơ ước viển vông, không nuối tiếc, sầu muộn, bận lòng bởi những gì đã qua; không để cho tâm ý bị những gì đã qua và những gì chưa tới ràng buộc, chi phối. Qua đó chúng ta luôn luôn từng giờ, từng khắc, từng nháy mắt, chúng ta hãy thận trọng và trân qúi với cái hạnh phúcchúng ta đang có. Hãy đi ngược trở vào nội tâm của chúng ta để tìm thấy cái an lạc , hạnh phúc. Đừng để lục trần ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) nó dẫn dắt chúng ta xa rời Chơn Tâm.
Mùa xuân trong ta, hạnh phúc trong ta, an lạc trong ta, niềm vui trong ta chứ không ở nơi đâu cả, đừng hoài công mà chạy đi tìm « Xuân» hạnh phúc bên ngoài. « Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa. An lạc nào hơn xuân trong nhà ». Xuân trong nhà là mùa xuân của tự tánh Chơn Như, là hình ảnh của giải thoát « Phật », nhắc đến mùa xuân, nói đến tết. Nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết ai ai cũng đều chúc nhau một mùa Xuân Di Lặc. Hình ảnh của một vị cao tăng có đôi má núng đồng tiền, nụ cười lúc nào cũng nở trên môi.
Như vậy Bồ tát Di lặcliên hệ gì đến mùa Xuân, hạnh nguyện của Ngài như thế nào? Ngài có điều gì đặc biệtbí ẩn hay không mà ai ai cũng luôn nhắc đến Ngài. Theo kinh điển thì Đức Di Lặc là một vị Bồ tát được Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các bộ kinh như: Di Lặc thượng sanh, Di Lặc hạ sanh, Di Lặc bổn nguyện, Kinh Bi Hoa, Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, Kính Đại Bát Niết Bàn, nhất là trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hầu hết các bộ kinh đều có nhắc đến Bồ tát Di Lặc. Thời Đức Phật còn tại thế, Bồ tát Di Lặc cũng đã thị hiện ở miền Nam Thiên Trúc ( Nam Ấn Độ), ở trong dòng Bà la môn. Sau gặp Phật, Ngài xuất gia, tu theo hạnh Bồ tát và được gần gủi để học đạo với Đức Thích Ca rồi. Theo kinh điển; Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni cho biết hiện nay Bồ tát Di Lặc đang ở trên cung trời Đâu Xuất. Với tinh thần Phật giáo Đại thừa thì Bồ tátbáo thân, ứng thânhóa thân. Tùy theo căn cơ chúng sanh mà các Ngài ứng hóa vô lượng thân không thể nghĩ bàn; vì vậy Bồ tát Di Lặc đã nhiều lần hóa thân vào cõi ta bà để độ chúng sanh mọi nơi và mọi thời đại và mọi tình huống. 
Theo sử Trung Hoa có kể lại hai hóa thân của Bồ tát Di Lặc đáng nhớ; đó là vào thế kỷ thứ 6. cách đây trên 1500 năm về trước, đời nhà Tùy, gần chùa Quốc Thanh. Một vị tăng gọi là Ngài Tăng Can ở trong một cái am gần chùa và đi thuyết giáo khắp nơi. Có lắm lúc Ngài cỡi cọp về, chúng trong chùa thấy hoảng kinh. Khi đến khi đi không ai lường được. Có lần Ngài ôm về một đứa bé gởi trong chùa đặt tên là Thập Đắc. Thỉnh thoảng có một ông ăn mặc rách rưới ở trong núi tuyết đi ra, tuyết phủ đầy mình gọi là Hàn Sơn. Hàn SơnThập Đắc được coi như là hai người ăn mày trong chùa. Các ngài là hai vị hóa thân ăn mặc rách rưới ngủ ngoài hành lang. Tới bữa ăn thì đợi chúng ăn xong hết, còn những thừa cặn gì đó ngài trút lại dùng. Có khi các ngài còn lượm cơm dưới sàn nước, rửa lại mà ăn. Chúng trong chùa coi các ngài như hai kẻ ăn mày không kém, nhưng mà có cái lạ là nhiều khi hai ngài ứng khẩu làm thơ. Những bài thơ của các ngài khó mà hiểu được. Một hôm bất chợt, sau một bữa trưa chúng tăng nghỉ hết, hai ngài trèo lên cổ của ngài Văn Thù và ngài Phổ Hiền ngồi. Một vị tăng ở dưới tăng xá thình lình đi lên, thấy như vậy ngạc nhiên quá mới chạy đi báo cho thầy trụ trì hay. Thầy trụ trì lôi hai ông xuống rầy quở đủ thứ hết. Hai vị đó là bạn thân của ngài Tăng Can. Ngày tháng trôi qua; Ngài Tăng Can tịch. Một hôm ông trưởng giả có bệnh nan y, ông nằm chiêm bao thấy ngài Tăng Can xưng là đức Di Lặc bảo ông đến đảnh lễ Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền và chỉ cho ông một phương thuốc uống hết bệnh. Muốn đảnh lễ hai vị đó thì vào chùa Quốc Thanh hỏi tên Hàn Sơn,Thập Đắc vì hai vị đó là Bồ-tát Văn ThùPhổ Hiền. Ông trưởng giả theo lời chỉ tìm thuốc uống lành bệnh, mới tìm đến chùa Quốc Thanh để gặp hai vị Hàn Sơn, Thập Đắc. Khi đó thầy trụ trì thấy ông trưởng giả tới hỏi hai chú ăn mày trong chùa thì thầy ngại quá không muốn chỉ. Nhưng ông trưởng giả mong mỏi gặp hai vị đó. Buộc lòng thầy trụ trì mời hai vị ra. Hai vị nắm tay đi ra. Vừa thấy hai vị ông trưởng giả qùi xuống lạy. Hai vị mới cười và nói: “Cái lão Tăng Can đã làm cho tông tích của chúng ta bại lộ rồi.” Hai Ngài, cõng nhau chạy tuốt vô rừng biến mất. Do đó mới biết hai vị là hiện thân của Văn Thù, Phổ Hiền, còn ngài Tăng Can là hiện thân của đức Di Lặc. Nhưng biết thì chuyện đã rồi, bây giờ muốn đãnh lễ qúi Ngài để kiếm chút phước thì không biết đâu mà tìm.
Vào thế kỷ thứ 10. Ngài cũng thị hiện với thân tướng của vị Hòa Thượng thường mang túi vải dạo khắp thiên hạ, người đời quen gọi là Ngài là Bố Đại Hòa Thượng. Ngài xưng hiệu là Khế Thử, người Minh Châu, huyện Phụng Hóa, tỉnh Triết giang- Trung Quốc. Vị Tăng Nhân kỳ lạ này, miệng thường nở nụ cười, bụng rất to, nói năng hoạt bát, đi tới đâu lấy đất làm nhà ngủ nghỉ. Ngài đi đây đó vô định, tùy chốn mà an, có lúc vùi thân trong tuyết mà ngủ, tuyết không bám vào thân, sống đời rất tiêu diêu tự tại.Nét mặt Ngài luôn luôn nở nụ cười bao dung. Trong sử có kể : Một hôm Hòa thượng Thảo Đường gặp Ngài hỏi: “Đại ý Phật pháp thế nào?” Đang quảy bị trên vai Ngài liền để xuống. Vị Hòa thượng hỏi thêm: “Chỉ có thế thôi hay có con đường tiến lên?” Ngài mang cái bị để lên vai và đi. Đó là câu trả lời của Ngài. Những hình ảnh đó là thế nào? Như vậy mà người ta vẫn chưa biết thế nào, tung tích ra sao? Nhưng một hôm Ngài sắp thị tịch, Ngài trở về chùa. Ngồi bên bàn thạch Ngài làm một bài kệ rồi tịch. Bài kệ đó như thế này:
Di Lặc chân Di Lặc
Phân thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân tự bất thức
Ngài nói rằng:Di Lặc thật Di Lặc. Phân thân trong muôn ức. Thường thường chỉ dạy người đời. Người đời tự không biết. Nhờ bài kệ đó mà người ta mới biết Bố Đại Hòa thượnghóa thân của đức Di Lặc. Vì vậy muốn vẽ hình đức Di Lặc người ta liền vẽ hình Bố Đại Hòa thượng. Đó là đức Di Lặc ở Trung Hoa. Bây giờ chúng ta thờ phượng là thờ hình ảnh đức Phật đó. Chớ đức Bồ-tát Di LặcẤn Độ thì mình không biết. Còn đức Di Lặc ở cung trời Đâu-suất lại càng không biết. Chúng ta chỉ biết Di Lặc hóa thân ở Trung Hoa với một hình tượngBố Đại Hòa thượng.
Phat_Di_Lac
Đức Phật Di Lặc trong ký ức mọi ngườiĐức Phật hoan hỷ, hình ảnh này toát lên niềm hạnh phúc và sự may mắn, rất xứng đáng cho biểu tượng mùa xuân. Nụ cười trên gương mặt Phật Di Lặc biểu hiện vô lượng từ tâm, bất luận già trẻ gái trai, mọi người thấy gương mặt này đều muốn mỉm cười theo. Tướng lỗ tai dài biểu hiện lòng từ ái khắp cả mọi người, lỗ tai khéo biết nghe, hoan hỉ với mọi âm thanh, ai tán dương cũng cười, ai chỉ trích la mắng cũng cười, tự tại với mọi thái độ người đời. Tướng bụng to biểu hiện Phật Di Lặclòng từ bi rộng lớn, dung chứa mọi chuyện trong thiên hạ. Đối với kẻ trí người ngu, người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn, Ngài đều có tâm bình đẳng không chấp trước. Tướng ngực phanh ra, biểu hiện sức mạnh của lòng dạ can đảm chân thành, bình đẳng không hai. Túi vải biểu hiện sự chứa đựng vô lượng diệu pháp, bố thí những gì có được cho chúng sanh. « Hàm tiếu nụ cười xuân Di Lặc, hiện nụ cười này xuân trong ta ».
Xuân trong ta là như vậy: Đón Xuân Di Lặc, người học Phật không phải đến chùa chỉ cầu phúc lộc cho đời sống cá nhân, như cầu về tiền tài, danh vọng, mà phải phát tâm rộng lớn học theo hạnh nguyện của Đức Phật Di Lặc. Nở nụ cười, chịu đựng, buông xả, vị tha. Không bị chướng ngại bởi những lời nói bên ngoài. Nếu những lời chửi mắng gièm pha, nguyền rủa tới lỗ tai, mà mình coi như gió thoảng cành dương. cho nó nương đi đâu thì đi, đừng vướng mắc để cho mình an nhiên tự tại. Làm được như vậy. Đó là tấm lòng gắn bó với tha nhân, nuôi lớn lòng từ tâm và sự nhẫn nại, nỗ lực rèn luyện tâm linh, truyền bá giáo lý vào lòng nhân loại, giúp đời bớt khổ. Mọi người phải hằng phát tâm kết duyên lành với Tam Bảo, nuôi lớn chí nguyện Cầu Giác Ngộ. Đón xuân Di Lặc như thế mới tiếp nhận được nguồn pháp lạc trong giáo lý Phật Đà. « Xuân Trong Ta »
Xuân về muôn hoa đua sắc thắm. Người người hớn hở đón mừng xuân. Đó là thú vui của cuộc đời, là mùa xuân gỉa tạm ngoại cảnhchúng ta đang đua nhau đi tìm, để rồi quên mất mùa xuân Chơn Thường vĩnh viễn ở trong ta. ” Ai bảo tìm xuân ngoài ngõ vắng.Trong ta sẳn có một mùa xuân ” . Cho nên chúng ta: ” Đừng để xuân đi rồi tìm kiếm. Hãy sống với xuân từng sát na ”. ”Xuân Trong Ta”. ( Hết )
Đôn Hậu. 15.01.2014

Thích Viên Giác TVGPhiLong


bai-giang-xuan-trong-ta_760

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25668)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37884)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19609)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18681)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14265)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20113)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9509)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14384)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35575)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10657)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19714)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23215)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13369)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10752)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20234)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10608)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9973)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14884)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17668)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17612)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13197)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31180)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25777)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13985)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17516)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10980)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12297)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10477)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12277)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11774)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9621)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12360)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9201)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8498)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9971)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9758)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12041)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14429)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9913)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11211)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8299)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10974)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14092)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9912)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15212)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13043)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23082)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24009)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12577)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15435)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17796)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15065)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16562)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16099)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17649)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11598)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11623)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17836)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10788)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10526)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11331)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12088)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11056)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36425)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8965)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9682)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34720)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17269)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10247)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10477)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12205)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13639)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14674)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9159)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24820)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11640)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10317)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15952)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15581)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14527)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13008)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12458)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14592)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18369)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9578)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18526)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18594)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19027)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18840)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11836)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13350)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47998)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11069)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13556)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13047)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11068)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12560)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11055)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31786)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 10125)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant