Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giọt Lệ Màu Hồng

04 Tháng Tám 201408:28(Xem: 10022)
Giọt Lệ Màu Hồng

Giọt Lệ Màu Hồng

Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.

blankNăm gần tròn mười sáu tuổi, tôi phải lên tỉnh học. Tá túc trong nhà người bạn của mẹ tôi, thỉnh thoảng cuối tuần mới về thăm nhà. Từ nhà tôi lên tỉnh chỉ cách mười mấy cây số, nhưng xe đò không có nhiều, chỉ chạy những chuyến phục vụ cho khách buôn bán từ dưới quê lên tỉnh. Việc lưu thông không tiện lợi mấy, nên tôi cũng ít về thăm nhà. Vã lại, mẹ tôi thường dặn nếu nhà mình không có việc gì cần, thì con cứ ở lại trên ấy để học, chứ đừng nên về nhiều mà tốn kém, cũng như mất thì giờ vô ích. Nghe vậy tôi cũng yên tâm, rồi đâm ra làm biếng về nhà. Lâu lâu hơi nhơ nhớ, mới đón xe đò về thăm mà thôi. Ngoài giờ học, tôi hay giúp dì Thảo những việc lặt vặt trong nhà, mặc dù dì không cho tôi làm, nhưng tôi cũng cố nài nỉ dì để cho vui lòng mẹ tôi. Hoàn cảnh gia đình dì Thảo, tôi chỉ nghe mẹ tôi kể lại đơn sơ. Nghe đâu dì chỉ có một đứa con trai, đến tuổi phải đi lính nhưng không may bị chết trận, trước khi dượng Thảo lâm trọng bệnh và qua đời. Từ đó dì sống cô độc trong căn nhà nhỏ, có vườn cây ăn trái và vài thửa ruộng trước nhà. Vì nhà nằm ngoại ô thị trấn, nên có vẻ hiu quạnh. Những buổi chiều, nhìn mông ra ngoài kia cánh đồng thấy những làn khói trắng tỏa lên từ mấy nóc nhà tranh. Từng sợi khói vương vấn như còn lưu luyến hơi ấm của bếp chiều, chầm chậm lan tỏa gợi lên một cảm giác buồn man mác. Những lúc ấy tôi thấy hình như tâm hồn cô đơn của dì Thảo như cố gói ghém, vo tròn lại đừng để cho thoát ra ngoài vòng cương tỏa; qua sự chịu đựngkiên nhẫn chờ đợi một tương lai sắp cạn niềm mong ước. Mà hoài niệm thì vẫn đầy ắp trong tâm như cố níu kéo, cất giữ một kỷ vật với hy vọng sẽ chở che, đùm bọc cho tháng ngày phù phiếm nầy không bị rơi rụng xuống vực sâu trầm cảm.

Thỉnh thoảng thấy dì hơi đăm chiêu, chắc là dì có nhiều tâm sự, nhưng dì không muốn kể cho tôi nghe những kỷ niệm nào trong đời mình. Cũng có thể dì sợ làm vẫn đục một tâm hồn son trẻ, khiến tôi phải cuốn trôi theo dì, và như vậy có thể làm cho dì không được vui. Những lúc ấy, tôi hay đến hỏi thăm dì những chuyện không đâu, để may ra giúp dì quên đi những giây phút sầu muộn. Giúp dì quên đi một dỉ vãng mà tôi nghĩ nó đã đeo đuổi theo dì như hình với bóng. Một dỉ vãng mà dì chưa lần kể cho tôi nghe, nhưng qua nỗi niềm che dấu, tôi nghĩ chắc chắn đời dì đã có nhiều mất mát và tôi đoán rằng, nếu nhắc lại sẽ làm cho dì thêm nát lòng…

Tuy vậy, dì Thảo cũng không phải là mẫu người quá bi lụy. Khi vui, dì cũng kể cho tôi nghe vài mẩu chuyện thời con gái của dì cũng sôi nổi, cũng lâm ly với nhiều tình tiết. Tuy không lắm thơ nhiều mộng, nhưng cũng có những kỷ niệm của dì khiến tôi bâng khuâng. Trong đời, ai lại không có một thời làm con gái ? Sau câu chuyện, dì thường khen tôi đẹp, hiền ngoan và học giỏi, tôi sung sướng đến phát ngượng. Nhiều lúc dì hay cười chế nhạo tôi, những lúc ấy tôi thấy dì như trẻ lại trông thật duyên dángdễ thương vô cùng. Dì cũng còn kể cho tôi nghe: Mẹ tôi và dì khi xưa là bạn học cùng trường, hai người thân nhau lắm. Nhưng đến ngày mẹ tôi đi lấy chồng thì phải về quê, lâu lâu mới gặp nhau trong những lần mẹ tôi lên tỉnh. Thế hệ của dì và mẹ tôi không có nhiều hạnh phúc, vì sinh ra trong thời buổi loạn ly, giặc giã khắp nơi phải dắt díu nhau chạy loạn. Nhiều khi không biết chạy đi đâu cho an toàn, dừng lại đâu cho yên ổn. Nhà cửa ruộng vườn thì hoang tàn, con ngườicảm tưởng như đang sống bơ vơ nơi đất lạ, không có một chỗ để về, không có một nơi để nương náu.

Nhưng nghĩ lại, mẹ tôi cũng còn may mắn hơn dì nhiều. Gia đình chúng tôi tuy nghèo, nhưng cũng có con có cháu. Còn dì thì mới nửa tuổi đời mà phải sống cảnh cô đơn chiếc bóng! Gần dì miết, rồi tôi cũng lây cái thói quen của dì, một người cứ luôn sống giữa hai trạng thái nửa vui nửa buồn ! Khi vui thì dì cười nói huyên thuyên, hay khen tôi duyên dáng, khen tôi giỏi dang, khen tôi đủ thứ... Những lúc buồn thì dì thường ngồi đăm chiêu nhìn ra cánh đồng bát ngát, nơi ấy hình như đang ẩn hiện hình bóng của người thân yêu đã một thời đem đến cho dì nguồn hạnh phúc.

Có lần trong câu chuyện, dì ngồi thở ra như tiếc nuối một điều gì, rồi dì nói bâng quơ nhưng có vẻ ngậm ngùi: “Giá như con dì còn sống...!” Rồi nước mắt của dì dàn dụa, khuôn mặt của dì dàu dàu khiến tôi cũng chạnh niềm trắc ẩn. Tôi không biết lấy lời nào để an ủi dì, vì tôi chưa đủ lớn khôn để cảm thông tâm sự của dì. Vã lại tôi cũng chưa được biết gì nhiều về thảm trạng đã đưa đến những bất hạnh cho chồng con của dì... Những lúc ấy, dì thường đưa mắt nhìn xa xôi, như đang sống lại một quãng đời nào đó của dì. Hình như con người, ai cũng muốn chắt chiu một chút kỷ niệm trong đời. Nhất là những chuổi ngày của tuổi thơ. Để làm hành trang cho mai sau, để làm hương hoa cho cuộc đời. Vì đôi lúc cảm thấy tâm hồn quá trống vắng, như người mẹ có con thơ chẳng hạn, những lúc phải thức theo con nửa khuya về sáng, không sao tìm lại giấc ngủ được, thì cũng cần nương tựa với một cái gì, để mong cho thời gian qua mau, mong sự trống vắng được lấp đầy. Tuy chỉ là ảo tưởng, nhưng mấy ai đủ can đảm để vứt bỏ những ảo tưởng, khi lòng họ quá cô đơn ? Hình như những lúc ấy, dì đang quay về nương náu với kỷ niệm !

Mùa hè năm ấy, tôi được nghỉ học và chuẩn bị về quê. Còn gì sung sướng đối với tuổi học trò trong những ngày nghỉ hè ! Được về quê vui chơi thỏa thích, sống với tuổi vô tư trọn vẹn, không bận tâm đến việc sách vở, trường lớp. Và cũng còn gì lưu luyến bằng những buổi chia tay nầy, tuy không phải là biệt ly, nhưng cũng có nhiều ngậm ngùithương nhớ bâng khuâng. Nhớ bạn, nhớ thầy, nhớ những giờ phút bên nhau, dầu không phải là người thân thuộc, nhưng có cảm tưởng còn hơn thế nữa! Những trạng thái tuy trái ngược nhau, song hình như đang bù đắp cho kỷ niệm của tuổi thơ. Riêng tôi, thì lại còn một chút buồn riêng. Tôi cứ nghĩ là khi vắng tôi, chắc dì Thảo sẽ cô đơn thêm cũng như dì sẽ buồn nhiều lắm, khi một mình sống trong cảnh quạnh hiu chiếc bóng nầy ! Khi không, tôi nhảy vào khuấy động cuộc sống của dì, làm thôi xao những trầm lắng đã quen, những suy tư còn đọng để rồi bây giờ dì phải trở về với nỗi buồn đã cũ! Vì thời gian sống với dì, tôi thấy dì rất thương mến tôi và quyến luyến không ít ! Sự hiện diện của tôi trong nhà dì Thảo, đôi khi cũng đem đến cho dì một chút an ủi nào đó, theo tôi nghĩ. Ngược lại, tôi cũng học được ở dì một vài đức tính quý báu của người đàn bà: nhẫn nhục, chịu đựng, an phận và tìm quên ...!

Về đến nhà, thì nghe chị tôi cho biết mẹ bị bệnh sốt thương hàn, bệnh xá ở quận không đủ thuốc men, nên phải đưa mẹ lên bệnh viện tỉnh để điều trị. Tuy vậy, nhưng được biết bệnh tình của mẹ không đến nỗi gì, tôi cũng hơi yên tâm. Lúc ở trên tỉnh, tôi không được biết là mẹ tôi đi nằm bệnh viện, vì hệ thống liên lạc thời đó cũng còn khó khăn ! Tôi chuẩn bị ngày hôm sau sẽ lên bệnh viện để thăm mẹ, tiện thể tôi ghé báo cho dì Thảo biết tin luôn thể. Thật ra thì chẳng có chuẩn bị gì, chỉ trước khi đi tôi ra vườn hái dăm quả cam, vài trái quýt để làm quà cho mẹ tôi mà thôi, vì ở quê đâu có gì hơn ngoài cây trái vườn nhà ! Nhưng tôi nghĩ rằng, đây có thể là món quà sẽ làm mẹ tôi cảm động !

Tôi được một cô y tá dẫn đến phòng mẹ, thấy tôi đến mẹ tôi mừng đến chảy nước mắt, rồi hỏi tôi huyên thuyên, nào chuyện học hành, nào sức khỏe của dì Thảo... Thấy mẹ tôi hơi gầy và xanh xao, nhưng bà lại an ủi tôi rằng mẹ đã đỡ nhiều rồi, bác sĩ nói hy vọng tuần sau sẽ xuất viện được rồi. Mẹ tôi dẫn tôi ra vườn sau của bệnh viện, nơi đây thật yên tỉnh, có sân cỏ, có ghế đá, có lối đi che mát bóng cây để cho bệnh nhân đi dạo ...

Ngồi xuống một băng ghế đá, tôi moi trong túi xách lấy mấy trái cam bốc vỏ đưa cho mẹ tôi. Mẹ tôi đón lấy rồi dịu dàng, con ăn với mẹ cho vui. Vừa ăn cam, mẹ tôi kể cho tôi nghe một câu chuyện, mà cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ. Có lẽ câu chuyện quá thương tâm, đến nỗi khi nghe xong tôi rất xúc động. Câu chuyện ấy, theo mẹ tôi nếu xẩy ra trong thời điểm nầy thì không có gì để kể lại cả, nhưng lại xẩy ra cách đây mười mấy năm rồi, thời bấy giờ phần thì quê nhà loạn lạc, gia đình nghèo khó, thiếu thốn đủ thứ, túng quẫn trăm bề ...

Lời kể chuyện của mẹ tôi như mơ hồ, như thổn thức chợt dừng lại giữa câu chuyện, như không muốn đi đến đoạn kết... Ngừng một lát, mẹ tôi kể tiếp: Cách đây mười mấy năm rồi, cũng vào một mùa hè như năm nay, không dưng cha con bị bệnh. Mới đầu thì bị tháo dạ một đôi lần, rồi ít ngày sau đó chuyển sang kiết lỵ, mà thời ấy đâu có thuốc men gì, chỉ lấy lá cây, nửa thì uống, nửa thì xông hơi ... Thế mà có nhiều người uống lá cây cũng lành bệnh, nhưng cha con thì ngược lại không thuyên giảm chút nào. Cứ kéo dài từ ngày nầy qua ngày khác, ban đầu mẹ lấy gạo nấu cháo thật nhuyển, bỏ vào chút muối thì cha con ăn được vài chén. Đến vài tuần sau cha con không còn muốn ăn nữa, chỉ gạn nước cháo để uống cầm hơi mà thôi. Bệnh tình kéo dài đến cả tháng trời, cha con gầy đến nỗi chỉ còn da bộc xương, chân tay lạnh ngắt, không buồn cựa quậy, hai mắt lờ đờ như mất hết thần lực. Người yếu hẵn đi, thỉnh thoảng cha con đòi uống nước, nhưng chỉ uống vài ngụm nhỏ rồi đôi mắt nhắm lại và lạc vào giấc ngủ... Những lúc đó thì mẹ chỉ biết cầu Trời khẩn Phật cho cha con mau qua trọng bệnh, chứ mẹ cũng chẳng biết làm sao hơn thế nữa. Vì mẹ đã chạy chữa đủ hết cả rồi, ai vẽ cho uống gì mẹ cũng kiếm cho cha con uống cả, nhưng chẳng những thuyên giảm mà càng ngày lại càng trầm trọng thêm hơn !

Thế rồi vào một buổi tối nọ, trong khi cha con thức dậy sau một giấc ngủ chiều, cha con kêu đói bụng. Mẹ hâm cháo lại cho cha con, nhưng ông chỉ ăn được vài muổng rồi bảo đắng miệng quá, nuốt không vô ! Mẹ hỏi cha con muốn ăn gì, để ngày mai mẹ đi chợ mua về cho cha con, ông chỉ lắc đầu ! Đôi mắt riu ríu, rồi lại lạc tiếp vào giấc ngủ miên man. Thấy khuôn mặt của cha con hốc hác, xanh xám như một cái xác không hồn mà lòng mẹ nghe quặn thắt. Chợt cha con lại thức giấc và như nhớ ra một điều gì, nên cố gắng thì thào với mẹ nếu có đi chợ thì mua cho cha con một chiếc bánh ú, loại bánh gói bằng nếp với nhưng đậu xanh như bánh chưng, nhưng nhỏ hơn và xếp thành ba góc. Mẹ thật phân vân không biết cha con đã gần cả tháng không ăn uống gì cả, người thì yếu xuống thấy rõ, không biết ăn bánh nếp vào có sao không?

Băn khoăn, thắc mắc nhưng nghĩ lại thấy cha con thèm một chiếc bánh, loại bánh mà lúc còn trẻ, cha con thường thích ăn lắm. Cứ mỗi dịp tết, dù trong nhà có thiếu thốn đến đâu, nhưng mẹ vẫn để dành cả thúng nếp, đậu gói bánh chưng, bánh tét cho cha con để dành ăn cả tháng, ăn mấy cũng không ngán cả. Bây giờ, cha con lại nhắc nhở lại một thứ mà mình rất thích, chẳng lẽ mẹ làm ngơ sao đành ? Vã lại, mẹ cũng nghĩ trong lúc đang còn bệnh, mà có triệu chứng thèm ăn một cái gì, thì có lẽ bệnh đã có phần thuyên giảm. Nghĩ vậy, nên sáng hôm sau mẹ ra chợ mua cho cha con một cặp bánh, nhưng chỉ ngắt cho cha con từng muỗng nhỏ để ăn thử thôi. Thấy cha con ăn được chút ít, mẹ cũng cảm thấy mừng, nhưng vẫn còn lo là bụng đói lâu ngày, không biết ăn bánh nếp vào có sao không? Mẹ cứ nghĩ quẫn, nếu cha con có mệnh hệ gì thì mẹ không biết làm sao đây ?!

Nhưng Trời Phật cũng thương đứa khó ! Sau khi ăn xong chiếc bánh, uống xong ly nước cha con ngủ một giấc cho đến chiều, khi thức dậy cha con la khát nước ... Rồi đến ngày hôm sau, hôm sau nữa cha con ăn được nửa chén, rồi đến một chén cháo và dần dần cha con bình phục...!

Mẹ tôi ngừng kể. Tôi thấy đôi mắt của mẹ tôi như nở một nụ cười, làm rưng rưng hai giọt lệ đang lăn tròn xuống má. Miệng thì thầm như lặp lại câu nói ban nảy: Nếu cha con có mệnh hệ nào, thì chắc là mẹ ...

Tôi kính cẩn cúi xuống, nửa như muốn dấu bớt cảm xúc của mình, nửa như muốn dành cho mẹ tôi tận hưởng giây phút hạnh phúc thật trọn vẹn, thật tràn đầy. Sự may mắn đã đến với cha mẹ tôi, trong giây phút ngỡ như tuyệt vọng ! Lòng băn khoăn, niềm trắc ẩn của mẹ tôi, như đang chứa đựng một nguồn yêu thương rộng lớn, dạt dào. Tình thương của mẹ đã dành cho cha tôi từ những ngày tôi mới mở mắt chào đời! Tuy không thấy, nhưng qua câu chuyện tôi hình dung tình thương ấy thật tràn đầy và bao la như biển trời…

Chợt tôi ngước nhìn lên bóng mát sum suê của hàng phượng. Những giọt nắng yếu ớt như còn lưu luyến hình bóng của ngày. Chiều xuống thật nhẹ, thật êm như đang du hồn về một cỏi bình yên nào. Trên cao, tàn lá xanh mướt điểm một vài bông hoa màu đỏ hồng, đang lung linh trước gió, chao lượn như từng gợn sống nhấp nhô ẩn hiện, nhưng êm đềm như khuôn mặt của mẹ tôi đang rưng rưng hai giọt lệ mừng !.

Trần Đan Hà

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23102)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14108)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13021)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55177)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9220)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14489)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14212)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14237)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13922)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36390)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19940)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18214)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19270)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19197)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20362)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17700)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31607)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15985)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15078)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14743)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46262)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35998)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21086)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21675)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23462)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34476)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19544)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18993)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22991)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20234)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18426)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19901)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19584)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33478)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34604)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54595)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37831)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21200)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17949)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63761)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17443)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49758)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27548)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20348)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23095)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18936)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16370)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17988)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 21000)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17414)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14511)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16908)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16423)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16068)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17540)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22053)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15162)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13531)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14395)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15434)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15052)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12748)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13411)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27457)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12574)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13254)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14519)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16282)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12445)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15473)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12897)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12233)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13244)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21719)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11306)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22794)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15144)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14979)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46251)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14635)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12675)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18951)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14792)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43933)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57083)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13892)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47570)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13693)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14631)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29066)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33376)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38441)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15437)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31286)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12560)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40483)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43496)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46716)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14449)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant