Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giao thừa Ất Mùi khai bút chuyện con dê

19 Tháng Hai 201514:13(Xem: 11250)
Giao thừa Ất Mùi khai bút chuyện con dê
GIAO THỪA ẤT MÙI KHAI BÚT CHUYỆN CON DÊ

Thích Giác Nguyên

chuyện con dêDê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà. Do đó, dê có rất nhiều giai thoạitruyền thuyết. Trong 12 con giáp thì Dê là hàng địa chi thứ tám gọi là Mùi . Đặc biệt, trong văn học dân gian, hình ảnh con dê rất dễ thương, chúng sống khá đơn giản, chỉ cần cỏ non và lá xanh là có thể sống mãn nguyện, nhưng chúng không bao giờ được yên thân.

Dê rừng, dê núi cũng là đối tượng cho nhiều loài săn bắt. Khi dê được thuần chủng trở thành gia súc cho con người sử dụng hơn ba ngàn năm qua thì nó bị bốc lột sự sống không thương tiếc. Da thịt lông sừng không chừa bỏ. Nó lại là món ăn thích khẩu của con người. Dê cái khi sanh con bị vắt cạn sữa cho người tiêu thụ nên không đủ cho con bú làm khổ nhọc thân mình.

Con Dê trong văn học

Đặc biệt loài dê có thiên tính nhớ ơn mẹ còn tấm bé, khi dê con bú vú mẹ, nó liền lùi ra phía sau và quỳ hai chân trước xuống. Bởi vậy trong Tăng Quảng Hiền Văn, một tác phẩm giáo dục trẻ em từ đời nhà Minh đã nói:

羊 有 跪 乳 之 恩 , 鴉 有 反 哺 之 義 ,

Dương hữu qụy nhũ chi ân, Nha hữu phản bộ chi nghĩa,

你 及 他 未 及 ?

Nễ cập tha vị cập?

Con dê vì biết ơn của mẹ nên quỳ xuống mà bú. Con quạ có cái nghĩa là khi cha mẹ già thì nó đi kiếm mồi mớm cho cha mẹ ăn.

Ngoài ra, hai câu chót của bài Sấm Trạng Trình là:

Mã đề Dương cước anh hùng tận,

Thân Dậu niên lai kiến Thái bình!

Ẩn nghĩa hai câu này là:

 Con ngựa nó đá con dê, anh hùng tận mạt bốn bề lao đao

Thân Dậu năm tới xáo xào, Thái bình biển động sóng gào phong ba.

Nhưng không biết vào thời gian nào đích thực xảy ra trước cuộc cờ thế giới Á châu.

Dê cũng là hình thức châm biếm những kẻ cúi luồn nịnh nọt ngoại bang để cầu chút hư vinh:

Tài giỏi sá gì thân khuyển mã

Thà rằng ngồi tót vuốt râu dê.

Hoặc treo đầu dê bán thịt chó, ý nói là một chuyện, còn làm là chuyện khác. Không phải chỉ lừa miếng ăn mà nó lừa ta vào cõi u mê ám chướng mà ta không hay, bởi do nhẹ dạ cả tin mà ra vậy.

Trong tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng có câu:

Phải duyên hương lửa cùng nhau,
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

Con Dê trong sử sách:

Sau khi diệt Ngô và Thục, Tư Mã Ý lên ngôi, lập nên nhà Tấn. Truyền đến đời cháu nội là Tấn Võ Đế tên thật là Tư Mã Viêm (236-290), ở ngôi 35 năm. Võ Đế là ông vua hoang dâm khi vừa lên ngôi, ông bèn ra lệnh cho dân gian ngưng ngay việc cưới hỏi, rồi sai hoạn quan đến từng địa phương để tuyển gái đẹp đem về hậu cung lên đến 5 ngàn người. Vua tỏ ra vui mừng đến bối rối, không biết phải hưởng dụng như thế nào? May có một cận thần đưa ý kiến: Sắm cho vua một cỗ xe dê, vua nên ngồi trên xe do 2 con dê đực kéo đi vòng quanh hậu cung, hễ xe dê ngừng ở cửa cung nhân nào thì tối hôm đó vua sẽ ngự đến ăn tối và ở đêm lại với cung nhân đó. Nhà vua cho là ý kiến hay liền nghe theo, báo hại các cung nhân phải nhờ người tìm hái lá dâu rắc trước lối vào cửa nơi mình ở để mong rằng xe dê sẽ ngừng lại, vì dê thích ăn lá dâu.

Vào thời Tam Quốc, khi Tào Tháo đuổi bắt Tả Từ. Cùng đường, Tả Từ liền chạy thẳng vào đàn dê, rồi dùng phép thuật biến mình thành dê. Khi phụ tá của Tào Tháo cho kiểm lại số dê thấy thừa một con, biết có Tả Từ trong đó, liền bảo: "Tả từ cứ đầu hàng, ta không giết đâu mà sợ !" Bỗng một con dê trong đàn bước ra gật đầu, quỳ lạy. Phụ tá Tào Tháo xông vào định bắt sống, tức thời cả đàn dê liền quỳ xuống, khiến tên quan không phân biệt được con dê nào là hoá thân của Tả Từ nữa! Câu chuyện kết luận: Loài dê có đức độ hơn người, không phản trắc, không tố giác bạn bè". Sách nhà Hán còn kể chuyện Lý Thức mặc áo dài, đi giày cỏ, chăn dê hàng năm trời ở Thượng Lâm để lập chí.

Ngoài ra câu chuyệnca ngợi đức trung kiên của Tô Vũ. Khi bị giặc Hung nô đày ra Bắc Hải chăn một đàn dê đực, Hẹn khi nào dê đẻ thì cho về. Tô Vũ vẫn giữ tiết nghĩa của nhà Hán, thường hái lá rau, kiếm dế, bắt chuột nướng ăn để sống qua ngày, không hề nản lòng thoái chí.

Con dê trong Thánh kinh Thiên chúa giáo

Thánh kinh Cựu Ước Chúa phán như sau: “Nếu một đầu mục, một vị linh hướng trong giáo dân vô ý phạm đến các giới răn của Chúa một cách công khai, được người khác biết đến. Người đầu mục đó phải tiến một con dê đực còn non chưa nhảy cái dâng lên cho Chúa để làm lễ tạ tội. Con dê sẽ bị giết và vị tư tế dùng tay bôi máu con vật lên các góc của bàn thờ, số máu còn lại thì đổ xuống chân bàn thờ (Lv 4:22-26). Luật lệ này cũng được áp dụng lên toàn thể cộng đồng Do thái nếu họ vô ý không giữ mệnh lệnh của Chúa, thông qua luật Mô-sê. Khi toàn thể cộng đồng vô ý phạm phải một luật định của Mô-sê, thì toàn thể cộng đồng phải dâng một số con vật như đã kể ở trên, kể cả một con dê đực để làm lễ xá tội (Lv 9:15-17 & Ds 15:22-26). Nhưng ngược lại, nếu một thường dân vô ý vi phạm luật Mô-sê công khai, được người khác biết, thì người ấy sẽ tiến dâng một con dê cái để làm lễ xá tội (Ds 15:27)”. Công thứcnghi lễ thì cũng như trường hợp kể trên.

Trong ngày lễ này, cộng đồng Do thái đặc biệt tiến dâng hai con dê đực trước bàn thờ Chúa. Vị tư tế sẽ bắt thăm chọn giữa hai con: một thăm chọn một con cho Chúa, thăm còn lại sẽ chọn con dê cho A-da-dên (A-da-dên có nghĩa là scapegoat trong tiếng Anh, dịch là con dê gánh tội). Vị tư tế sẽ giết tế "con dê cho Chúa" làm lễ tạ tội cho toàn dân. Sau khi rảy máu con dê trên một cái nấp xá tội và làm một vài nghi thức thánh hiến bàn thờ, người ta dẫn "con dê cho A-da-dên" còn sống tới. Vị tư tế đặt hai tay lên đầu con dê này, rồi xưng thú trên nó tất cả lỗi lầm của toàn dân. Dĩ nhiên vị tư tế có cả một danh sách các giống tội gớm ghiếc mà cộng đồng hay phạm. Ông trút tất cả những tội lỗi đó lên mình "con dê gánh tội."

Sau khi xưng thú tội cộng đồng xong, vị tư tế sẽ nhờ một người phục dịch dẫn con dê này thả sâu vào sa mạc. Con dê này gánh mọi tội lỗi cộng đồng Do tháiđi lạc lõng trong sa mạc. Thức ăn của dê là cỏ tươi mà giữa một sa mạc khô cằn, không cỏ, không nước, lại có thú dữ ăn thịt như sư tử và chó sói quanh quẩn, thì số phận của "con dê gánh tội" thật là thảm não. Vì phải gánh tội cho cộng đồng mà nó giờ đây phải sống trong đói khátsợ hãi, và cuối cùng nó sẽ chết trong đau đớn, có khi là kiệt sứcđói khát, có khi bị phanh thây bởi một con sư tử hay một đàn sói dữ tợn. Phần người thả dê khi trở về phải làm những việc thanh tẩy để tránh sự uế tạp lây từ con dê đó. Anh ta phải giặt áo và tấm rửa kỷ lưỡng trước khi anh ta trở về với cộng đồng. Phần con dê bị sát tế để tạ tội thì xác của nó được đem ra ngoài trại xa mà đốt đi. Và luật lệ này được lưu truyền mãi trong dân Do thái trong suốt thời Cựu ước (Lv 16:1-34).

Con Dê trong Kinh điển Phật giáo

 

 

Vào thời Đức Phật, sự hiến tế sinh vật của Bà-la-môn giáo cũng rất thịnh hành và công việc tế lễ thượng đế, thần linhđặc quyền của giai cấp Bà la môn. Đức Phật đã tuyên ngôn: “Giới bất sát không khi nào giết; Sát bất nhơn mất biệt tiếng người”. Ngài đã cực lực phản đối những cuộc hiến tế như thế, Ngài cũng chủ xướng học thuyết duyên sinh vô ngã, bác bỏ niềm tin vào một đấng thượng đế quyền năng tối thượng.

Một thời thái tử đi về thành Vương Xá, giữa đường gặp một đoàn cừu bị dắt đưa về thành để vua Tần Bà Sa La làm lễ tế thần. Ngài đi thẳng đến bàn thờ, vừa gặp vua đang làm lễ và các vị giáo sĩ Bà La Môn đang sắp sửa giết một con cừu để cúng các vị hung thần. Thái tử tự thân đến cởi trói cho con vật khỏi nạn và giảng giải cho mọi người nghe rằng : - Ai cũng tham sống, thế mà ai cũng thích giết hại. Ai cũng muốn tạo ra sự sống. Ngài nói tiếp: - Dẫu muôn loài có khác nhau, nhưng sự sống chỉ là một. Ngài dạy tiếp: Sau khi giết chết chúng sinh, có người sẽ đầu thai làm thú vật, và có nhiều thú vật sẽ tái sanh làm người. Người và thú lẫn lộn, lúc làm người, lúc làm thú, vì thế chúng cùng một dây liên lạc như anh em. Không thể lấy máu của thú vật rửa tội cho mình hoặc xin các vị thiên thần tha tội là một việc vô ích. Nếu các vị ấy đều thiện thì các vị sẽ không tha thứ cho một việc làm ác như thế. Nếu các người làm ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng, các người cũng không hết ác được. Nhưng dù thiện dù ác, các vị đó cũng không thể tha tội cho ai. Nhân nào thì quả nấy, không ai sửa đổi luật nhơn quả.Tội của người nào thì người ấy phải chịu, không ai có thể vượt qua. Càng giết hại nhiều lại càng mang lắm tai ương họa hoạn cho cuộc sống hôm nay.

Nhờ sự cảm hóa của Phật giáo biết bao người buông đao thành Phật, thành Bồ tát

Thậm chí kẻ hàng thịt cũng đốn ngộ tỉnh thức:

Tạc nhật Dạ-xoa tâm

Kim triêu Bồ tát diện,

Bồ tát dữ Dạ-xoa

Bất cách nhứt điều tuyến

Tạm dịch:

Hôm qua tâm Dạ-xoa,

Ngày nay mặt Bồ tát.

Bồ tát cùng Dạ-xoa

Cách nhau đường tơ tóc
Chính vì vậy, vua Tần Bà Sa La sai khắc trong đá và chạm vào gỗ chỉ dụ: “Từ xưa đến nay, chúng ta đã phạm một tội lớn là giết súc vật để tế thần và để ăn thịt. Nhưng bắt đầu từ ngày nay, trong dân gian không được ai làm đổ máu một con vật nào, vì chúng sanh cùng chung một sự sống. Và nên nhớ rằng những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương”.

Thời Phật còn tại thế, Kutadanta là một vị Bà La Môn làu thông kinh điển Phệ Đà, có rất nhiều đệ tửtín đồ. Ông được vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) sùng kính và nhà vua đã hiến cúng cho ông ta ngôi làng Khanumata trong nước Ma Kiệt Đà. Ngày nọ, đức Phật đến hóa duyên tại làng này. Lúc ấy, Kutadanta đang chuẩn bị giết các thú vật gồm một số lớn bò đực, bò cái, cừu con và dê để tế thần. Khi hay tin đức Phật ngự ở tại vườn xoài trong làng mình, Kutadanta muốn đến yết kiến để thỉnh vấn Ngài về phương thức tế lễ thế nào cho có hiệu quả tốt.

Các đệ tử của Kutadanta cố gắng khuyên ông đừng đi, nhưng ông đã nói cho họ biết đức Phật là một đấng Giác Ngộ vĩ đại, và sau cùng ông đã thuyết phục được họ cùng đi đến viếng thăm đức Thế tôn. Đức Phật giảng cho Kutadanta và các đồ đệ của ông nghe kinh Kutadanta (thuộc Trường Bộ Kinh) nhằm giải thích cho Kutadanta hiểu rõ lợi ích của đời sống tu hành. Ngài bèn kể một câu chuyện Dê Cứu Thầy Tu như sau:

Thuở xưa, có một bà-la-môn rất nổi tiếng trong tôn giáo Ấn Độ. Ông quyết định đó là ngày thực hiện các nghi lễ hiến tế một con dê. Mà theo ông nghĩ đây là một buổi lễ tế theo yêu cầu đấng thần linh của mình. Ông đã lấy một con dê thích hợp cho việc tế sinh, rồi ra lệnh cho đệ tử của mình đem con dê ra sông Hằng và tắm rửa cho nó sạch sẽ và đeo vào cổ nó một vòng hoa. Sau đó, họ cũng tắm rửa như là một phần của việc thực hành tịnh hóa.

Khi xuống ở bên bờ sông, dê đột nhiên hiểu rằng hôm nay mình chắc chắn sẽ bị giết và đây là lần trả nghiệp cuối cùng rồi sẽ được tái sinh. Nó biết được các kết quả của những hành động bất thiện trong quá khứ của nó tạo ra được trả quả dứt điểm trong đời sống kiếp dê cuối cùng này. Vì vậy, nó cười vang một cách náo nhiệt.

Ở giữa tiếng cười của nó, nó nhận ra một sự thật khác - đó là vị đạo sĩ đã thực hiện cuộc hiến tế bằng giết nó, để rồi người đạo sĩ ấy  sẽ phải chịu những hậu quả kinh khủng do sự thiếu hiểu biết của mình. Vì vậy, dê bắt đầu khóc to như là vừa cười!

Các người đệ tử tắm trong giòng sông Hằng rất lấy làm ngạc nhiên khi đầu tiên nghe tiếng dê cười và bây giờ lại khóc. Vì vậy họ hỏi con dê: "Tại sao khi nảy ngươi lớn tiếng cười vang rồi bây giờ lại đổi sang tiếng khóc thảm thiết?” Dê liền trả lời: "Tôi sẽ cho bạn biết lý do nhưng phải có mặt ông thầy của bạn, đạo sĩ Bà-la-môn mới được."

Vì họ muốn biết sự thật, ngay lập tức đẫn con dê tế thần đến cho vị đạo sĩ bà-la-môn. Họ giải thích tất cả những gì việc con dê đã làm. Đạo sĩ cũng trở nên rất tò mò. Ông trân trọng hỏi dê: "Tại sao ngươi cười đã rồi lại lớn tiếng khóc?"

Con dê nhớ lại cuộc sống quá khứ của mình, nó nói: "Thuở xưa, tôi cũng là một tu sĩ Bà-la-môn, giống như bạn, được đào tạo trở thành một hành giả thực hiện các nghi thức hiến tế tôn giáo thiêng liêng. Tôi tự nghĩ ra rằng là nên phải hy sinh một số dê theo sự mặc khải cần thiết của thần, sẽ mang lại  lợi ích cho người khác, cũng như bản thân mình trong sự tái sinh ở tương lai. Tuy nhiên, kết quả thực sự của hành động của tôi là số dê bị tôi giết lên đến 500 con. Do đó tôi phải chịu trả quả báo trong 499 kiếp sống bị chặt đầu. Lần này tôi nhận ra rằng hôm nay tôi chắc chắn sẽ bị mất đầu của tôi lần thứ 500. Như vậy tôi đã hoàn tất cuộc trả quả báo do những hành động bất thiện của tôi từ bao đời trước. Niềm vui này làm cho tôi cười thoải mái không thể dừng được. Sau đó, tôi chợt nhận ra rằng  bạn là người đạo sĩ cũng giống như tôi trước đây, đã có những hành động sát sanh bất thiện và sẽ phải chịu một quả báo tương tự bị chém đầu như tôi trong 500 kiếp sau của bạn! Vì vậy, lòng từ bi và cảm thông, tiếng cười mãn nguyện của tôi quay lại là những giọt nước mắt thảm thiết để khóc cho bạn. "

Đạo sĩ Bà-la-môn nghe qua liền rún sợ cho là lời nói của dê có thể đúng sự thật, ông ta bèn bảo, "Vâng, này ông dê, ta sẽ không giết ông nữa." Dê trả lời, "Thưa đạo sĩ, dù bạn không giết tôi, tôi biết rằng hôm nay tôi cũng sẽ bị mất đầu vì lý do khác, để hoàn tất sự trả quả cuối cùng qua những hành động bất thiện trong quá khứ của tôi."

Đạo sĩ nói, "Đừng sợ, Tôi sẽ tìm mọi cách bảo vệ tốt nhất không cho sự xâm hại nào sẽ đến với bạn."  Dê đáp, "Ô này ông bạn Đạo sĩ , dù bạn có bảo vệ cho tôi bằng cách nào đi nữa, hay dẫu tôi có chạy trốn bất cứ nơi đâu cũng không thoát khỏi nghiệp báo của mình.

Vì vậy, Đạo sĩ Bà-la-môn hủy lễ tế sinh và bắt đầu từ bỏ việc giết các động vật vô tội để hiến tế thần linh. Ông ra lệnh cho những đệ tử của mình chú tâm bảo vệ con dê mà ông vừa tha tội chết. Con dê được thả ra và tung tăng chạy lên sườn núi có nhiều đá để gặm một số lá non trên cành, nó trườn cổ của mình để tiếp cận cắn bứt. Thình lình mây đen u ám kéo đến và một tia sét kinh hoàng đánh trúng một tảng đá trên sườn núi, cắt một phiến đá sắc nét, văng chém ngay vào đầu chú dê khiến chết ngay lập tức. Sau đó mây tan và dông tố cũng qua đi.  Ôi, lưới trời cao lồng lộng tuy thưa nhưng khó lọt!

Ngày xưa Thái tử Tất Đạt Đa trên đường tầm đạo, ngài đã trải qua sáu năm quá ư khổ hạnh, thân thể ốm gầy còn da bọc xương, sức cùng lực tậm, Một hôm ngài lần bước xuống bờ sông để tắm gội nhưng giữa đường Ngài ngã xuống đất bất tỉnh. Khi ấy  có một cô gái chăn dê tên là Su- dà-ta (Sujàta) thấy thế liền mang bịch sữa dê  nấu thành đề hồ đổ vào miệng Ngài. Sau khi sữa thắm vào cổ họng, Ngài dần dần hồi phục được sức khỏe nhận ra ép xác là sự sai lầm, bèn nỗ lực tham thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm, cuối cùng khi sao mai vừa mọc thì hốt nhiên đại ngộ. Ngài  chứng được Tam minh thành tựu Chánh đẳng Chánh giác hiệu là Phật Thích ca Mâu ni. Ngài giảng thuyết Kinh Pháp Hoa, đưa ra thí dụ Giáo lý của ngài có ba trình độ, như có ba cỗ xe. Xe trâu tượng trưngĐại thừa chở được nhiều người. Xe hưu là Trung thừa chở vài ba người. Xe dê là tiểu thừa chỉ chở được một người tùy sở thích của mỗi chúng sanh.

Tóm lại, nhân loại của thế kỷ 21 này, đã hấp thụ một nền văn minh khoa học khá cao, con người đã phóng phi thuyền lên không gian, lên mặt trăng và dự kiến di cư lên sao hỏa, vậy mà tại thế gian này vẫn còn bao điều ngốc nghếch vô minh, vẫn còn duy trì những hành động dã man như cảnh chém lợn, chặt hàng ngàn đầu con trâu gọi là Lễ hội.

Nói đến Lễ là phải tôn nghiêm, tôn kính, thanh cao, đẹp đẽ minh triết, đậm nét nhân văn, thắm đượm tình người, hiếu sinh hơn là hiếu sát, đáng để đời sau noi gương học hỏi, chứ không phải cuồng sát trước cái chết vô tội vạ đáng được yêu thương tha thứ. Thử đặt mình vào cảnh ấy sẽ ra sao? Một chiếc gai đâm vào người, một viên sõi trong chiếc giày, một hạt bụi rơi vào mắt cũng đủ cho ta xốn xang đau buốt. Huống chi kẻ khủng bố ra tay hạ thủ lấy đi bao mạng sống không có tấc sắt trong tay và họ cũng không có khởi lòng thù hận. Như vậy có còn nhân tính chăng? Ôi chao! Thế giới này sẽ an vui biết mấy, nếu mọi người biết dừng tay nghĩ lại thì những cảnh thảm khốc manh động sẽ không còn nữa. Nếu nhân loại biết thương yêu đến loài vật mà không nỡ tâm giết chúng để cúng tế và ăn thịt. Nếu nhân loại chỉ tự nuôi sống với rau củ hoa trái thì cõi nhân hoàng này sẽ là thiên đường tại thế, anh em bốn biển một nhà, vạn loại chúng sanh đại đồng một thể. Mong thay!

Soạn viết xong 3 giờ sáng đêm Giao thừa

California, Xuân Ất Mùi 2015

Thích Giác Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20493)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22392)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18797)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27083)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18785)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 20007)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38126)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20188)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28378)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46442)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15501)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65795)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13779)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18699)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15582)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14617)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18787)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12676)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17687)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25533)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38779)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17756)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11281)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18680)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17460)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13272)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13360)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17619)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24382)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12447)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13861)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13032)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12922)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14218)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14648)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21128)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22699)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 30016)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13913)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18289)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17105)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12671)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30778)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22849)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14699)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13035)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12787)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12544)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13091)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16378)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15284)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23874)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16222)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29062)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20335)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15601)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37325)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45088)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36978)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant