Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Bài Ca Về Tâm Vô Tham Đối Với Gia Đình, Bạn Hữu Và Tài Sản Của Milarepa

07 Tháng Mười 201510:40(Xem: 10680)
Những Bài Ca Về Tâm Vô Tham Đối Với Gia Đình, Bạn Hữu Và Tài Sản Của Milarepa
Những Bài Ca Về Tâm Vô Tham Đối Với Gia Đình,
Bạn Hữu Và Tài Sản Của Milarepa


Geshe Ngawang Dhargyey

từ bản ghi chép của Alexander Berzin
Pauline Yeats hiệu đính, tháng Sáu, 2008
từ bài miệng của Sharpa Rinpoche
Dharamsla, Ấn Độ, 1974
Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ; Võ Thư Ngân hiệu đính

www.berzinarchives.com

Tâm Vô Tham Đối

 

Milarepa có một người chị cứ khăng khăng bảo ngài đi cưới vợ, xây nhà và sinh con, nhưng ngài đã bỏ nhà ra đi và gặp vị thầy của mình là Marpa. Khi chị của ngài biết rằng Marpa đã lập gia đình, bà càng ép buộc Milarepa hơn nữa.

- Tại sao em không làm như thầy của em? Bà gặng hỏi.

- Nếu con chồn tru nơi sư tử gầm thì đó là một điều sai lầm.

Sau đó, Milarepa đến thăm một cặp vợ chồng không thể có con, dù họ đã cố gắng hết sức. Họ muốn nhận ngài làm con nuôi, nhưng ngài từ chối. “Cháu không thể nào sống ở đây để làm con nuôi của hai bác, nhưng hãy cho cháu biết, hai bác gặp khó khăn gì?” Hai ông bà phàn nàn là không có ai chăm sóc khi họ về già.

Milarepa ngẫm nghĩ rồi trả lời:

- Khi một người con trai và một người con gái mới gặp nhau, họ nghĩ rằng người kia đẹp như chư thiên, và không ngừng ngắm nhìn nhau. Khi đã quen biết một thời gian thì họ bắt đầu nhìn nhau một cách bỉ ổi, rồi cuối cùng họ đánh nhau. Nếu người này níu tóc người kia thì người kia sẽ tóm cổ người này. Rồi người này dọa đập người kia một gậy, và người kia sẽ đánh trả bằng cái muỗng gỗ.

- Đệ tử của cháu là Rechungpa đã có một kinh nghiệm tương tự như vậy. Rechungpa đã rời bỏ vị thầy của anh ta và hoàn trả giới nguyện để cưới một người vợ rất độc đoán. Một ngày kia, anh ta gặp một người ăn mày trên đường, van xin anh cho ông ta sợi dây chuyền ngọc lam. Rechungpa đưa sợi dây chuyền cho người ăn mày, nhưng khi về đến nhà, vợ anh ta hỏi chuyện gì đã xảy ra cho sợi dây chuyền ngọc lam. Rechungpa kể chuyện cho vợ nghe và vợ anh quá giận dữ nên đã đánh anh liên tục bằng cái vá trong nồi xúp mì tugpa. Rechungpa càu nhàu rằng, “Ta đã từng nhận nhiều lễ quán đảnh trong đời, nhưng chưa bao giờ nhận lễ quán đảnh bằng cái vá. Ta đã mang nhiều trang sức, nhưng chưa bao giờ đeo mì tugpa trên người!”

- Một thời gian sau đó, cháu ban một lễ quán đảnh và Rechungpa đã đến tham dự. Cháu đưa một chuỗi ngọc lam ra và nói rằng, “Nếu muốn nhận lễ quán đảnh thì con phải dâng lên thứ này”, và biết rõ là Rechungpa đã đem cho sợi dây chuyền ngọc lam của anh ta rồi! Bác thấy đó, những cặp vợ chồng gây gỗ với nhau. Khi họ già nua và rụng răng, họ nhìn giống như bò đực và bò cái. Cuối cùng, họ nhìn giống như yêu tinh và ma quỷ! Vì vậy nên cảm ơn hai bác, nhưng cháu sẽ không nhận lời làm con nuôi của hai bác.”.

Người chồng van nài, một mực nói là ông phải có một đứa con trai để chăm sóc cho ông và vợ ông, đem lại cho họ sự an toàn. “Nếu cháu chịu làm con trai nhà ta, chúng ta sẽ chuẩn bị một đám cưới cho cháu, và cháu có thể có con cái để lo lắng cho cháu sau này.”, nhưng Milarepa từ chối.

- Có con thì rất tốt. Khi mới có con, chúng nhìn thật đẹp, giống như con cái của chư Thiên, và chúng đem lại biết bao hạnh phúc! Nhưng dần dần, khi lớn lên, chúng đòi hỏi đủ thứ. Chúng làm như cha mẹ đã mắc nợ chúng, luôn luôn làm phiền và nhắc nhở cha mẹ phải trả nợ cho chúng. Cuối cùng thì con trai sẽ đem người ngoài như bạn bè, bạn gái về nhà để cha mẹ nuôi nấng, rồi chúng sẽ nắm quyền trong gia đìnhdần dần đuổi cha mẹ ra khỏi nhà của họ.

- Nếu cha mẹ nhẹ nhàng hỏi chúng điều gì, chúng sẽ nạt lại. Chúng sẽ xem thường cha mẹ khi họ già nuaxấu hổcha mẹ, ngay cả đối với mẹ của chúng. Rồi chúng hoàn toàn thay đổi so với ngày xưa, khi chúng là những công tử nhỏ bé ngọt ngào. Chúng không bao giờ làm cho cha mẹ an tâm, chẳng bao giờ đền đáp lòng tốt của họ. Chúng luôn luôn làm những điều trái ngược với những gì cha mẹ muốn chúng làm. Tóc tai lôi thôi, quần áo kỳ dị và giày dép lạ lùng.

- Nếu một đứa con trai tạo ra bấy nhiêu rắc rối thì chúng ta muốn một đứa con gái. Người vợ đề nghị, vì vẫn chưa muốn bỏ cuộc.

Milarepa nhẫn nại trả lời:

- Ban đầu, con gái cũng giống như con trai, rất ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng cuối cùng, nó cũng trở nên hung bạo và chiếm đoạt tài sản, đòi hỏi và tham muốn không cùng. Thay vì đem của cải về cho gia đình thì chúng xin càng nhiều tiền càng tốt để tiêu xài. Chúng nịnh hót cha và ăn cắp đồ của mẹ, lấy mà không xin phép. Chúng không bao giờ biết ơn, xem việc cha mẹ cung phụng những gì chúng muốn là bổn phận của họ.

- Chúng không ngừng làm cho cha mẹ lo lắngthất vọng, đi chơi với bạn trai hư hỏng, về nhà muộn.... Cách trả ơn cha mẹ là vênh mặt cáu kỉnh như một con yeti hung dữ. Rồi chúng rời khỏi gia đình để tạo lập một gia đình khác, đem theo của cải của cha mẹ càng nhiều càng tốt. Chúng chỉ trở về nhà để viếng thăm cha mẹ khi gặp khó khăn.

- Vì vậy, cháu đã vĩnh viễn từ bỏ mọi nỗi khổ không cần thiết ấy. Cháu không muốn có bất cứ đứa con gái hay con trai nào. Milarepa nói.

Cặp vợ chồng vẫn chưa cam lòng, nên tiếp tục nói, “ Vậy còn bạn bè thì sao? Nếu không có ai gần gũi như bà con hay bạn bè thì thật là buồn thảm!”.

- Họ cũng vậy thôi! Khi mới gặp thì họ đều cười vui, rất dễ chịu, làm bác rất vui vẻ.  Rồi họ kể bao nhiêu chuyện, tin tức và tán gẫu. Họ mời bác đi đây đó và bác không còn chút thì giờ riêng. Rồi bác phải trở về nhà để thăm tất cả bà con của họ, và những người này sẽ kể mọi tin tức cho bác nghe, bác không được yên ổn chút nào hết. Sau đó, bác trao đổi quà cáp và thức ăn, chuẩn bị các món ăn với họ. Cuối cùng thì mọi người bắt đầu tranh đua với nhau. Người này muốn biết người kia đang làm gì, họ ganh tỵ với nhau và sự tranh đua phát sinh.

- Nếu chưa bao giờ gần gũi ai thì sẽ không có sự bất đồng, nhưng nếu có bạn bè thì sẽ dễ có sự tranh cãi. Khi nói chuyện phiếm, người ta thường bàn tán về những người gần gũi với họ nhất. Nếu mình sống gần ai, mình sẽ luôn tìm ra lỗi lầm nơi họ. Những người không phải là bạn bè thì sẽ để cho bác yên, còn bạn bè thì tới thăm bác rồi đi bàn tán về những lỗi lầm họ thấy nơi bác. Cháu không muốn có người thân và bạn bè muốn lợi dụng thời gian hạnh phúc của mình và không muốn chia sẻ những khoảnh khắc đau buồn với họ. Milarepa nói.

Không nản lòng, hai vợ chồng mời mọc lần cuối cùng. “Chúng ta hiểu, cháu không muốn có bạn bè, con cái hay gia đình, nhưng chúng ta có nhiều của cải. Nếu cháu ở đây với chúng ta thì cháu có thể thừa hưởng tài sản khi chúng ta qua đời.”.

Milarepa lắc đầu và nói rằng, “Điều này cũng vô dụng. Cháu sẽ không hy sinh mục tiêu thành tựu giác ngộ vì tất cả chúng sanh để có được tài sản của hai bác.

- Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ. Khi đã có tài sản thì ta lại muốn có nhiều hơn nữa. Khi mới tích lũy của cải, nó cho ta niềm vui và khiến cho người khác ganh tỵ. Sau đó, khi có nhiều của cải hơn thì ta sẽ trở nên keo kiệt hơn, ngần ngại hơn khi phải chia sẻ nó. Chính việc tích lũy của cải sẽ đem lại kẻ thù cho ta. Gia đình và bạn bè đổ xô đến với ta để hưởng được điều gì, nhưng vẫn trở thành kẻ thù, vì họ quá ganh tỵ.

- Cuối cùng, khi về già thì người khác lại hưởng thụ những thứ bác đã tích lũy bấy lâu nay. Người ta bị ăn trộm giết vì tài sản của họ. Của cải có thể giết hại bác. Tích lũy của cải giống như một bàn đạp dẫn đến những tái sanh thấp hơn. Vì vậy nên cháu rất cảm ơn, nhưng cháu phải khước từ lòng hảo tâm trao tặng tài sản của hai bác. Đó là một sự quyến rũ, như trò chơi của ma quỷ, nhưng cuộc gặp gỡ của chúng taích lợi và trong tương lai, chắc chắn là cháu sẽ giúp hai bác đến một cõi Phật. Cháu sẽ cầu nguyện cho hai bác, vì hai bác đã muốn tặng cho cháu quá nhiều thứ.

Cuối cùng thì cặp vợ chồng đã được thuyết phục về sự bất lợi của tất cả những điều này. Họ hết lòng với Milarepa và đem cúng dường tài sản. Họ thọ nhận giáo huấn với ngài và cuối cùng đã đạt được niềm tinnội quán trước khi lìa đời.

Đây là những giáo huấn mà Milarepa đã ban về tâm vô tham đối với con cái, bạn hữu, người thân và của cải, và cách sống tự tại với giáo pháp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23100)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14107)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13021)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55174)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9219)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14489)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14211)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14237)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13920)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36388)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19940)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18214)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19268)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19197)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20361)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17699)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31603)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15985)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15077)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14743)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46262)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35998)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21086)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21675)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23462)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34472)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19544)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18993)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22990)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20234)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18426)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19899)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19584)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33478)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34602)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54595)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37829)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21199)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17949)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63760)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17443)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49758)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27547)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20347)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23095)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18934)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16370)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17988)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 21000)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17414)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14511)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16908)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16423)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16067)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17540)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22051)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15162)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13531)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14395)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15433)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15051)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12748)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13411)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27457)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12573)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13254)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14519)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16282)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12445)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15473)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12896)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12232)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13244)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21716)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11305)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22794)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15143)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14979)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46251)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14633)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12675)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18950)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14792)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43932)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57081)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13890)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47569)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13693)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14631)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29063)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33374)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38439)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15437)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31286)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12560)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40481)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43496)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46714)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14449)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant