Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Mô Tả Tịnh Độ Của Chư Phật Trong Tạng Pāli

04 Tháng Mười Một 201511:21(Xem: 10974)
Sự Mô Tả Tịnh Độ Của Chư Phật Trong Tạng Pāli

SỰ MÔ TẢ TỊNH ĐỘ CỦA CHƯ PHẬT TRONG TẠNG PĀLI

Tống Phước Khải

Sự Mô Tả Tịnh Độ Của Chư Phật Trong Tạng Pāli

 

Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ. Từ này khá xa lạ đối với nhiều tín đồ theo truyền thống Phật giáo Nam Truyền Theravāda. Theo quan niệm thông thường của truyền thống Theravāda thì ngoài những Đức Phật quá khứ đã nhập diệt và những Đức Phật tương lai chưa ra đời, thì trong thời điểm hiện tại không tồn tại một Đức Phật nào khác. Cũng theo quan niệm này, hiện tại ngoài quả địa cầu của chúng ta ra không còn tồn tại một lãnh địa nào khác của Chư Phật. Do đó, khi đề cập đến những Quốc Độ của Chư Phật nằm ngoài trái đất hoặc ngoài vũ trụ này sẽ có những ý kiến không tán đồng.

Tuy nhiên, qua việc khảo sát tam tạng Pāli, nhiều học giả phương tây đã phát hiện ra những văn bản trong tạng đề cập đến những Quốc Độ của Chư Phật.  Thế Giới tôn nghiêm này đã được ghi nhận rất chi tiết trong chương  Buddhāpadāna của kinh Apadāna thuộc  Khuddaka Nikāya (Tiểu Bộ) của tạng Pāli. Giáo sư K.R. Norman, một học giả hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu văn học Pāli, đã nhận xét về  Buddhāpadāna rằng: “Trong đoạn  này Đức Phật đã kể về những Quốc Độ của các Chư Phật (Buddhakkhettas), đó là những miền đất lý tưởng của sự mỹ lệ, là nơi các Đức Phật cư ngụ. Một bức tranh  phác họa hình ảnh các Đức Phật chất vấn với nhau, cũng đề cập đến các đệ tử chất vấn các Chư Phật và ngược lại (K.R. Norman, 1983, tr.90). Sau đây chúng ta sẽ khảo sát văn bản  Buddhāpadāna và các văn bản liên quan trong tạng Pāli để tìm hiểu về vấn đề này.

1.  Số lượng Quốc Độ của Chư Phật là vô số

Thuật ngữ Quốc Độ của Chư Phật được dùng để chỉ về phạm vi thuộc sự ảnh hưởng quyền lực của Đức Phật, đôi khi cũng được gọi là Lãnh Địa hay Địa Phận của Chư Phật. Thuật ngữ này trong tiếng Pāli gọi là Buddhakkhetta. Nghĩa của từ khetta được từ điển Pāli của Buddhadatta giải thích là: “cánh đồng, mảnh đất, nơi chốn thích hợp, nơi mà một cái gì đó sinh xuất hoặc tìm thấy”;  từ điển của Vipassana Research Institute giải thích là “điền sản, đồng ruộng, một người vợ, thân thể, nơi chốn, vùng, miền, khoảng rộng”.

Theo Chú Giải (aṭṭhakathā) của tạng Pāli thì Buddhakkhetta gồm có 3 loại: (1) jātikhetta; (2) āṇākhetta; và  (3) visayakhetta. Chi tiết từng loại khetta được Chú Giải ghi nhận như sau:

- (1) Jātikhetta: Là lãnh địa đản sinh. Lãnh địa này tổng cộng có 10.000 thế giới (lokadhātu). Lãnh địa này rung chuyển khi các sự kiện xảy ra liên quan đến Đức Phật như: lúc Ngài đản sinh, lúc Ngài giác ngộ, lúc Ngài quyết định nhập diệt, và lúc Ngài vào Niết Bàn.

- (2) Āṇākhetta: Là lãnh địa quyền lệnh. Lãnh địa này có tổng cộng có 100.000 koṭi vũ trụ (cakkavāḷa). Lãnh địa này là nơi tích lũy các thần chú bảo hộ, như kinh A Sá Năng Chi, hộ chú Chim Cút, hộ chú Khổng Tước…

- (3) Visayakhetta: Là lãnh địa miền. Lãnh địa này được cho là không thể nghĩ bàn, do đó không đề cập đến số lượng. Sự vô hạn của lãnh địa này đồng với trí tuệ xa rộng vô hạn của Đức Phật, và được mô tả là có thể xa rộng vô cùng tận tùy theo ý nguyện của Đức Như Lai.

Qua ghi nhận trong Chú Giải, chúng ta thấy rằng khái niệm Buddhakkhetta là rộng lớn vô cùng. Khái niệm này vươn xa và vượt khỏi hẳn tầm cỡ của một vùng đất, một quốc gia, một thế giới địa cầu, hay một vũ trụ. Các từ như Lãnh Địa, Địa Phận, Quốc Độ, Lãnh Vực… chỉ là những từ có sẵn trong phạm vi xã hội loài người, được mượn tạm để hình dung một phần của khái niệm Buddhakkhetta. Ngoài sự rộng lớn về không gian vị trí, khái niệm Buddhakkhetta còn bao trùm lên cả phương diện tâm ý, tư tưởng và các phương diện khác.

Buddhakkhetta trong tiếng Sanskrit gọi là Buddhakṣetra. Từ điển Buddhist Hybrid Sanskrit của Edgerton giải thích từ Buddhakṣetra như sau:  “Buddha-field, region or (usually) world or world-system in which a particular Buddha lives and operates”; nghĩa Việt là “Vùng đất của Đức Phật, miền hoặc (thông thường là) thế giới hoặc hệ thống thế giới trong đó một Đức Phật nào đó cư ngụđiều hành.” 

Đa phần các từ điển hoặc tài liệu tiếng Anh dịch thuật ngữ khetta (hoặc kṣetra) thành “field”. Từ “field” theo Oxford Advanced Learner’s Dictionary có các nghĩa chính như sau: một vùng đất; một chủ đề hay một hoạt động đặc thù;  một công việc thực tế; sân thi đấu; người hoặc sản phẩm cạnh tranh trong kinh doanh, khu vực chịu tác động lực vật lý, cột cơ sở dữ liệu. Chúng ta thấy chỉ có nghĩa thứ nhất của từ field là phù hợp để dịch thuật ngữ khetta, tức chúng ta chọn nghĩa một vùng đất.  Nếu chọn từ tiếng Việt “lãnh vực” để dịch thuật ngữ khetta thì có khả năng sẽ làm cho người đọc hiểu lầm thành “một chủ đề nghiên cứu hoặc hoạt động”, ví dụ như: lãnh vực toán học, lãnh vực kinh doanh v.v.  Mặc dù nghĩa chính của từ “lãnh vực” trong các từ điển Hán ngữ là “cương vực”, “lãnh thổ” nhưng các nghĩa này không còn phổ thông đối với người Việt hiện tại.

Số lượng Quốc Độ của Chư Phật đã được Đức Phật Thích Ca thuật lại trong  Buddhāpadāna thuộc Tiểu Bộ của Chính Tạng Pāli như sau: “Disā dasavidhā loke, yāyato natthi antakaṃ. Tasmiñca disābhāgamhi, buddhakhettā asaṅkhiyā.” Bhikkhu Indacanda đã dịch tiếng Việt là:Mười phươngthế giới vũ trụ đối với người đang du hànhvô tận (không có điểm tận cùng). Và ở mỗi phương (thế giới) ấy, các địa phận của chư Phật là (vô số) không thể đếm được.

Như vậy, lời của Đức Phật Thích Ca trong Chính Tạng Pāli đã khẳng định sự tồn tại những Quốc Độ của Chư Phật là vô số. Những Quốc Độ này thì tồn tại khắp mười phương vũ trụ.

Chúng ta nhận thấy rằng, việc xác định có sự tồn tại vô số các Thế Giới của Chư Phật không phải chỉ xuất hiện riêng ở hệ thống kinh điển Sanskrit mà ngay cả hệ thống kinh điển Pāli cũng ghi nhận rất rõ ràng về vấn đề này.

Khi bàn luận về sự sinh diệt vong của các thế giới, luận sư Buddhaghosa trong tác phẩm Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) đã xác định rằng trong thời hoại kiếpthì Lãnh Địa Quyền Lệnh (āṇākhetta) của Chư Phật sẽ bị hủy diệt đồng thời với Lãnh Địa Đản Sinh (jātikhetta), và hai lãnh địa này khi được thành lập cũng xảy ra đồng thời. Riêng về Lãnh Địa Miền (visayakhetta) thì nằm ngoài sự đề cập này.

2. Tạo lập Quốc Độ Phật là nguyên nhân được trở thành Phật

Chương  Buddhāpadāna của kinh Anapada, mở đầu bằng câu hỏi của ngài An Nan hỏi Đức Phật Thích Ca về các yếu tố quyết định để trở thành một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác: “Bạch đấng Anh Hùng, nghe nói có các vị được gọi là đức Phật Toàn Tri, các vị ấy được thành tựu là do các nguyên nhân nào?” (Bản dịch của Bhikkhu Indacanda). Nội dung còn lại của chương là những gì mà Đức Phật trả lời cho câu hỏi của ngài An Nan, trong đó xuyên suốt chiếm hầu như phần lớn nội dung câu trả lời đều xoay quanh  việc của Đức Phật Thích Ca khi còn là một Bồ Tát, Ngài đã dùng năng lực tâm ý để tạo dựng nên một thế giới trang nghiêm, nguy nga, mỹ lệ; trong thế giới ấy có đầy đủ Chư Phật, Thanh Văn và tín chúng của quá khứ, cộng với sự hiện diện của các Chư Phật và Thanh Văn của thời hiện tại… Sự mô tả về một Thế Giới của Chư Phật trong  Buddhāpadāna như một bộ phim 3D hùng vĩ, sống độngtôn nghiêm.

Mở đầu phần trả lời, Đức Phật Thích Ca đề cập ngay đến Quốc Độ của Chư Phật (Buddhakkhetta). Và tại nơi này Ngài đã tác ý xây dựng nên một lâu đài nguy nga, đẹp đẽ từ tất các châu báu thu thập được cũng từ chính nơi Quốc Độ này.

Sau khi xong việc xây dựng các kiến trúc vật thể và quang cảnh tự nhiên, thì Ngài đã  tiếp tục dùng tâm lực để hóa hiện các Chư Phật và các vị Thanh Văn của thời quá khứ đi vào thế giới của Ngài. Các vị ấy vào tòa lâu đài để tham dự trong pháp hội. Bên cạnh những chư vị Phật và Thanh Văn của quá khứ được tạo bằng tâm ý, còn có chư vị Phật và Thanh Văn của thời hiện tại đến dự. Ngoài ra còn có cả những chư vị Độc Giác Phật của cả quá khứhiện tại. Khi trong lâu đài đã có sự hiện diện đầy đủ của hội chúng thánh giả, Ngài đã tiếp tục việc dâng y và thực phẩm lên các chư vị.

Xong phần dâng y và cúng dường thực phẩm là đến phần các chư thánh giả nhập vào thiền hành, hoặc có những vị thuyết pháp,  hoặc khai triển thần thông… Tiếp đến là hình ảnh các chư vị đàm luận Pháp trong Pháp hội. Những Chư Phật và những đệ tử Thanh Văn thể hiện sự bình đẳng chất vấn lẫn nhau trong khi bàn luận Pháp: Chư Phật chất vấn Chư Phật khác, Chư Phật chất vấn Chư Thanh Văn, Chư Thanh Văn chất vất Chư Phật.

Phần kế đến là những lời Phát Nguyện cho Thế Giới Chư Phật mà Ngài đã tạo lập. Nội dung lời phát nguyện đều tập trung vào vấn đề duy trì những gì đã tạo dựng trong thế giới ấy; và gia trì tạo ra sự sống động cho thế giới này, tạo ra hoạt động tự nhiên huyền diệu và khả ái với đầy đủ những âm thanh, ánh sáng, màu sắc …

Tiếp đến là phần phát tâm của Ngài để chia sẻ phước báu và bố thí vật thực cho các loại chúng sinh.

Đoạn cuối, Đức Phật kể về phước báu có được do sự tạo lập Thế Giới Chư Phật như vậy. Ngài thuật lại rằng nhờ phước báu này mà kiếp sau Ngài đã được tái sinh vào cõi Trời Đao Lợi. Rồi tiếp tục những kiếp sau này, Ngài không bao giờ bị đọa vào các đường ác và chỉ tái sinh vào một trong 2 cõi: Thiên và Nhân. Bất kỳ lúc nào, sau khi tái sinh, Ngài cũng được làm vị đứng đầu Trời hoặc Người, luôn có quyền lực, diện mạo và trí tuệ vượt trội tất cả cư dân của cõi ấy; luôn luôn được hưởng sự hạnh phúc, giàu sang, trọng vọng, quyền uy tùy theo ý muốn.  Sau đó, Ngài đã bố thí những thứ quý báu đến rất nhiều hạng người khác nhau và cuối cùng Ngài đã đi đến phẩm vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác.

Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng việc tạo dựng một Thế Giới Chư Phật đẹp đẽtôn nghiêm như được mô tả trong kinh là hết sức cần thiết để một hành giả trở thành một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammāsambuddha).

3. Sự trang trọng, đẹp đẽtôn nghiêm của Quốc Độ Chư Phật

Barua (1949) đã nhận xét rằng: “The Buddhāpadāna, or the Tradition of the previous excellent deeds or services of the Buddhas, which forms the first chapter of the Apadāna, contains a vivid and charming description of the Buddhakhetta” (p.5).

Nghĩa Việt: “Buddhāpadāna, hay Truyền thống về việc làm hay công đức toàn hảo ở quá khứ của các Chư Phật, hình thành chương đầu tiên của kinh Apadāna, chứa đựng sự miêu tả sống độnglôi cuốn về Quốc Độ của Chư Phật.”

Đồng quan điểm này K.R. Norman (1983) cũng ghi nhận rằng chương Buddhāpadāna đã mô tả một vùng đất đẹp đẽ lý tưởng, là nơi các Đức Phật cư ngụthảo luận Pháp cùng với các đệ tử của mình (tr.90).

Chúng ta có thể thống kê một số kiến trúc vật chất, cảnh quan và chúng sinh trong Thế Giới Chư Phật được mô tả trong  Buddhāpadāna theo từng nhóm sau đây:

- Vật liệu xây dựng & trang trí: vàng, bạc, ngọc bích, pha lê, ngọc mani, hồng ngọc, san hô, ngọc trai, thất bảo.

- Hình thể kiến trúc: lâu đài, trụ cột, lầu gác, hồ sen, cổng chào, tháp nhọn, mái nhọn, cửa hình sư tử.

- Các món trang trí: hình hoa sen, hình chim thú, lọng che, viền rào, mạng lưới hoa, mành lưới vàng, chuông lục lạc, cờ hiệu.

-  Nội thất: giường bằng pha lê, hồng ngọc, mani, bạc… được phủ vải lụa, lông thú; ghế bành.

- Thực vật: sen đỏ, sen xanh, sen hồng, cây như ý.

- Chim muông: chim công, thiên nga, chim ca lăng tần già.

- Âm thanh: tiếng chuông lục lạc, tiếng chim hót, tiếng trống, tiếng đàn, tiếng tụng kinh, tiếng đàm luận Pháp. 

- Ánh sáng và màu sắc: ánh sáng màu cánh kiến, màu xanh, màu vàng, màu trắng, màu đỏ, màu hồng, màu vàng úa, màu vàng chói.

- Mùi: hương thơm ngào ngạt, năm hương thơm tổng hợp.

- Hoạt động tự nhiên: sen tỏa sắc, cây trổ hoa, chim múa, chim hót, mỹ nhân múa hát.

 - Thành phần Hội Chúng: các Chư Phật quá khứ, các Chư Phật hiện tại, các Độc Giác Phật quá khứ, các Độc Giác Phật hiện tại, các Thanh Văn quá khứ, các Thanh Văn hiện tại, các Tín Chúng.

- Hoạt động Pháp hội: tọa thiền, ngọa thiền, triển khai thần thông, thuyết Pháp, nghe Pháp, thảo luận Pháp, dâng y, dâng thực phẩm.

Tất cả những chi tiết trên đã được liên kết một cách hài hòa với nhau để tạo thành một bức tranh sống động, một bộ phim hoàn hảo với những hình ảnh đẹp đẽtôn nghiêm của một Quốc Độ của Chư Phật.

4. Có phải  Buddhāpadāna bị ảnh hưởng tư tưởng Đại Thừa?

ý kiến cho rằng nội dung  Buddhāpadāna bị ảnh hưởng tư tưởng Đại Thừa. Tuy nhiên, K.R. Norman (1983) không tán đồng quan điểm này. Ông đã nhận định nhiều phần của kinh này đã xuất hiện từ rất sớm và cho rằng rằng cùng một tư tưởng có thể tồn tại trong cả hai truyền thống Phật giáo khác nhau, tức Theravāda và Mahayana, là do sự tiếp nối tư duy cơ động xuất phát từ Phật giáo sơ kỳ (tr.91).

Barua (1949) thì cho rằng  Buddhāpadāna là khái niệm mang tính thơ ca đã đặt tiền đề cho tư tưởng Đại Thừa về Thế Giới Cực Lạc: “In the poetic conception of the Buddhakhetta, was forestalled the later Mahāyānic idea of Sukhāvatī, the glorious land of Buddhist Paradise” (p.7).

Nếu như so sánh với nội dung kinh Sukhāvatī (Kinh A Di Đà) của truyền thống Đại Thừa thì chúng ta thấy rằng sự mô tả về Quốc Độ Chư Phật hầu như tương đồng với sự mô tả trong  Buddhāpadāna. Các trích đoạn sau đây trong kinh Sukhāvatī cho thấy sự tương đồng này:

“thế giới Sukhāvatī đó được trang hoàng với bảy tầng ban công,  bảy hàng cây cọ, và có treo những dãy chuông . Mọi phía đều có bờ rào , đẹp đẽ và lộng lẫy với tứ bảo như vàng, bạc, lưu ly và pha lê”; “trong thế giới đó có những hồ sen được trang hoàng bởi bảy báu, đó là vàng, bạc, lục trụ thạch, pha lê, ngọc trai đỏ, kim cương, và san hô là món thứ bảy”; “trong cõi Phật đó có chim thiên nga, ca lăng tần già  và khổng tước… chúng hội tụ và trình diễn hòa nhạc, mỗi loài phát thanh điệu riêng của mình”; “khi những hàng cây cọ và các dãy chuông trong cõi Phật đó được gió thổi lay động, âm thanh du dươngvi diệu phát ra từ đó.”

 5.  Không cùng tồn tại cùng lúc hai vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác?

Một số ý kiến cho rằng trong Trường Bộ Kinh có đề cập đến vấn đề không thể xuất hiện cùng lúc hai vị Phật Chánh Đẳng Giác. Như vậy khái niệm về Buddhakhetta có mâu thuẫn với khẳng định đã nêu ra trong Trường Bộ Kinh không?

Chúng ta có thể đối chiếu với định nghĩa về Buddhakkhetta ở mục số 1 đã giải thích rằng Lãnh Địa Đản Sinh của Chư Phật có đến 10.000 thế giới (lokadhātu), trong khi đó kinh đề cập là không thể xuất hiện cùng lúc 2 vị Phật trong cùng 1 thế giới. Ngoài ra, chúng ta nhận thấy rằng còn có vô số những Quốc Độ thuộc Lãnh Địa Miền (visayakhetta) của Chư Phật, cho nên số lượng Chư Phật là có thể là vô số. Trong  Buddhāpadāna cũng đề cập đến số lượng không đếm được các Chư Phật: “Các đấng Pháp Vương đã được tròn đủ ba mươi pháp toàn hảo là (vô số) không thể đếm được”, Và các Chư Phật có thể xuất hiện cùng lúc ở một địa điểm: “Tất cả chư Phật và các bậc A-la-hán đã tụ hội lại. Các ngươi hãy tôn kính đảnh lễ chư Phật Toàn Giác và các bậc A-la-hán.” (bản dịch của Bhikkhu Indacanda).

6. Việc tạo tác bằng tâm ý trong  Buddhāpadāna và sự quán tưởng Bản Tôn

Theo truyền thống hành thiền của Theravāda thì hầu như khôngphương pháp dùng tâm ý để tạo thành các Chư Phật, Chư Thánh Giả hoặc Thế Giới của Chư Phật. Phương pháp thiền quán tưởng của truyền thống này chỉ được áp dụng ở một số trường phái và phần lớn tập trung trên các đề mục quán tưởng như: xác chết, bộ xương, thể trược, hoặc kasina.

Chúng ta nhận thấy rằng phương phápĐức Phật đã sử dụng như đã mô tả trong  Buddhāpadāna chính là sự quán tưởng các Chư TônCảnh Giới của các Chư Tôn. Nội dung kinh cho thấy hiệu quả của phương pháp này thật là lớn lao và đã trở thành nguyên nhân chính để Đức Bồ Tát đi đến phẩm vị Phật Toàn Giác. Ngoài ra, như Ngài thuật lại trong kinh này, thì sau khi thực hiện pháp quán tưởng bằng tâm ý Ngài đã không còn bị đọa vào các đường ác mà chỉ tái sinh vào hai cõi Trời và Người, đồng thời mỗi lần tái sinh như vậy đều hưởng được phước đức trọn vẹn.

Phương pháp quán tưởng của Đức Phật Thích Ca trong  Buddhāpadāna đã được truyền thống Đại Thừa áp dụng triệt để. Sự thực hành quán tưởng Bản TônMạn Đà Laphương pháp được lưu hành rộng rãi trong các truyền thống Mật Giáo. Đặc biệt kinh Quán Vô Lượng Thọ của truyền thống Đại Thừa trình bày rất chi tiết về cách thức dùng tâm ý để tạo nên Quốc Độ của Chư Phật.

7. Kết

Tịnh Độ hay Quốc Độ thanh tịnh của Chư Phật được ghi nhận rất rõ ràng trong cả hai hệ thống kinh điển Pāli và Sanskrit. Số lượng Quốc Độ này là vô số, đồng thời số lượng Chư Phật cũng là vô số. Phương pháp dùng năng lực tâm ý để tạo thành cảnh giới Quốc Độ của Chư Phật cùng với các Thánh Tôn là rất quan trọng. Hành động này được ghi nhận trong  Buddhāpadāna là nguyên nhân để một vị Bồ Tát trở thành một Đức Phật Toàn Giác. Cũng nhờ hành động tác ý quán tưởng này mà hành giả sẽ không còn bị đọa vào các cõi ác và được tái sinh trong các cõi Trời, Người với những phước báu đầy đủ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Buddhāpadāna bản tiếng Pali, URL: https://suttacentral.net/pi/tha-ap1  

- Bhikkhu Indacanda, Bản dịch tiếng Việt của Buddhāpadāna, URL: http://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/39/000-000.pdf   

- Barua (1949), Bản dịch tiếng Anh của Buddhāpadāna, URL: http://www.ancient-buddhist-texts.net/English-Texts/Short-Pieces-in-English/Buddhapadana.htm  

- Barua (1949), Buddhakhetta and Buddhāpadāna, URL: http://www.ancient-buddhist-texts.net/English-Texts/Short-Pieces-in-English/Buddhapadana.htm

- K.R. Norman (1983), Pāli Literature, Wiesbaden, Otto Harrassowitz.

- Bhikkhu Ñāṇamoli (2010), The Path of Purification, Colombo, Samayawardana Printers.

- Kinh Sukhāvatīvyūhaḥ bản tiếng Sanskrit, Digital Sanskrit Buddhist Canon.

- Tống Phước Khải, Bản dịch tiếng Việt của kinh Sukhāvatīvyūhaḥ, URL: https://kinhmatgiao.files.wordpress.com/2013/04/kinh-sukhavativyuha-viet-dich.pdf

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23115)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14118)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13028)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55218)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9242)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14505)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14234)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14251)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13936)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36403)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19953)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18225)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19290)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19214)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20392)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17709)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31617)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15992)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15086)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14757)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46276)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 36021)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21091)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21697)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23478)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34506)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19553)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 19000)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 23001)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20242)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18435)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19917)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19594)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33502)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34651)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54614)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37856)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21212)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17956)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63781)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17454)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49776)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27571)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20367)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23107)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18941)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16380)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17997)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 21018)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17419)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14521)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16925)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16453)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16076)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17560)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22079)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15167)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13547)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14404)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15439)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15057)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12759)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13417)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27469)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12579)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13257)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16285)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12448)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15478)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12912)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12241)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13247)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21738)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11314)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22813)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15153)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14984)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46265)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22545)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14646)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12681)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18959)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14813)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43956)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57113)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13900)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47592)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13702)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14651)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29084)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33390)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38452)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15449)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31299)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12564)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40510)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43513)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46734)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14457)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant