Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Suối Tào Khê

17 Tháng Tư 201609:31(Xem: 10875)
Suối Tào Khê

SUỐI TÀO KHÊ

Thích Trung Nghĩa

Suối Tào Khê


‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo. Dòng thiền phương bắc lấy Lục Tổ làm cội nguồn, sử gọi Nam tông (南宗); dòng này chủ trương “không câu nệ hình thức, không bám víu danh từ khái niệm, không chú trọng ngồi thiền, chỉ cần nội tâm trực giác đốn ngộ, tức tâm tức Phật, liền có thể thành Phật”.

Trong nghi lễ Phật giáo cố đô Huế, bài tán Tào khê thuỷ gồm có 7 câu,[1]được cất lên trầm bỗng trong lễ cúng ngọ. Với sử liệu về nghi rất ít ỏi nên khó khảo cứ về gốc tích tác giả, xuất xứ và niên đại của bài này. Do mang công dụngđịch trần cấu; tẩy bụi trần” và “Dương chi sái xứ nhuận tiêu khô; Cành dương rưới héo tàn thành tươi” nên đôi lúc được vị Sám chủ[2] bắt tán bài này thay cho bài “Dương chi tịnh thuỷ, biến sái tam thiên (Nước tịnh cành dương, rưới khắp ba cõi) trong lễ Bạch Phật khai kinh. Cốt lõi sám kệ nhấn mạnh đến “Đề hồ quán đỉnh” (醍醐观顶), vào thời Ấn Độ cổ đại, xem đề hồthức ăn hảo hạng trên thế gian, là chất liệu sữa bò được pha chế rồi biến thành bột sữa tinh khiết nuôi sống mạng người. Theo Phật Quang đại từ điển, cụm từ này nhằm chỉ cho nương vào trí tuệ trong con người mới phá trừ phiền não vô minh, đầu óc nóng bức, trở nên mát mẻ.           

‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo. Dòng thiền phương bắc lấy Lục Tổ làm cội nguồn, sử gọi Nam tông (南宗); dòng này chủ trương “không câu nệ hình thức, không bám víu danh từ khái niệm, không chú trọng ngồi thiền, chỉ cần nội tâm trực giác đốn ngộ, tức tâm tức Phật, liền có thể thành Phật”.[3] Đối lập với dòng này là dòng thiền phương Bắc của Đại sư Thần Tú, chủ trương “duy trì giáo pháp truyền thống, an tịnh toạ thiền, quán niệm hơi thở, dọn trần cấu để thanh tịnh, dần dần chứng ngộ (tiệm ngộ) thành Phật”,[4] sử gọi Bắc tông (北宗.)

Trong sử phiên dịch kinh điển Trung Hoa cổ đại, người mở đầu cho phong trào dịch thuật và khơi dậy việc thiết lập dịch trường Hán dịch Phật điển, ban sơnổi tiếngAn Thế Cao người Ba Tư đến thành Lạc Dương vào niên hiệu Kiến Hoà (174) thời Đông Hán. Kinh An ban Thủ Ý thuộc Tiểu thừa được Thế Cao dịch ra rất sớm, nhấn mạnh thông qua pháp đếm hơi thở mà dứt trừ vọng tưởng tà niệm, xuyên qua soi rọi năm ấm thân thể mà thấy ‘khổ, không’.

Nói đến thiền, thông thường mọi người liên tưởng đến do người Trung Hoa sáng tạo, nhưng thực ra đây là văn minh cổ quốc Ấn Độ của phương đông cổ đại. Trải qua nhiều thời đại và quá trình đúc kết hoằng hoá của Tổ sư mà hình thành trọn vẹn thiền phái[5]. Như tông Thiên Thaitông phái đặc thù của dân tộc hoá. Thời sơ kì Tiểu thừa, cũng từng lưu hành thiền pháp ‘tứ niệm xứ’ nhằm đả phá ngoại đạo và gầy dựng quan niệm ‘thường lạc ngã tịnh’ trên thế gian, soi thấy thân dơ bẩn và tâm vô thường để không bám víu. Thiền pháp “16 đặc tánh pháp” nhấn mạnh việc điều hoà tâm quán tưởng và hơi thở, nhấn mạnh cảm thọ trong hỷ lạc thiền định, để thấy kiếp người là khổ, muôn pháp đều không, thuộc từ Tiểu thừa. Thấy được Phật giáo từ cổ sơ đã lưu hành tư tưởng thiền pháp chán ghét thế gian để sống đời khổ hạnh, là đại biểu đặc điểm căn bản của thiền pháp phương Bắc lúc bấy giờ. [6]

Trong thoáng đại ngộ của Lục Tổ khiến dòng suối cũng mang tính linh thiêng, nên suối này có địa vị rất được sùng cao trong Thiền tông. Tương truyền, Pháp sư Trí Dược người Tây Ấn Độ dong thuyền đến mảnh đất Tào Khê vào thời Lương Nam triều; sư đã vốc nước mà uống, chất nước trong ngọt diệu vời, lên thượng nguồn, trố mắt nhìn quang cảnh sơn thanh thuỷ tú, cảm nhận nguồn suối chứa đất thánh, rồi vận động người con Phật dựng chùa trên đất, đặt tên chùa Bảo Lâm (Nam Hoa). Cách 170 năm sau, có Huệ Năng đến đất thánh này đại khai hoằng giáo.[7]

Trong cỗi nguồn xa xưa, có Đức Thích Tôn dẹp trừ ma quân rồi Đại giác ngộ dưới cội bồ-đề trên đất liền bên dòng sông Ni liên thiền vào lúc sao mai vừa mọc, cách khoảng 1000 năm sau đó, có Huệ Năng (638-713 sTl) “đốn ngộ thành Phật” dưới dòng suối trong trẻo Tào khê. Tương truyền, Lục Tổ từng tắm gội thân thể dưới dòng nước trong veo này, đêm nọ chợt đốn ngộ Phật lý, từ đó, dòng Tào Khê trở nên thánh thuỷ muôn thưở. Ven triền Nam Hoa thiền tự có thánh thuỷ chảy mãi hơn nghìn năm nay, nước mát rượi trong xanh như ngọc bích, mưa xuân Tào khê, hạt rơi lất phất, mưa đêm rả rít, thánh thuỷ róc rách, khiến học nhân chuyên tập thiền quán dễ bề hoát nhiên khai ngộ, nên dân gian còn gọi là ‘Suối trí tuệ’ (开悟泉), ‘suối khai ngộ’ (智慧泉). Và Tào khê được nâng lên địa vị tối cao—Tổ đình Thiền tông.

Lục Tổ lên pháp toà trong chùa Đại Phạm để tuyên giảng pháp tối thượng thừa đốn giáo Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, được đệ tử Pháp Hải tập lục thành bộ kinh điển—Pháp bảo đàn kinh (Đàn kinh), gọi đủ là Nam tông đốn giáo tối thượng đại thừa ma-ha bát-nhã ba-la-mật kinh Lục Tổ Huệ Năng Đại sư vu Thiều châu Đại Phạm tự thí pháp Đàn kinh. Với lời văn thông tục, nội dung dồi dào, truyền trao ‘giới vô tướng’, trả lời câu hỏi của Tăng tín đồ nên đây bản kinh được y cứ quan trọng trong cội nguồn của tư tưởng Thiền tông, là bản trứ tác duy nhất mà được Phật giáo Trung Hoa tôn xưng là kinh.

Tư tưởng thiền học của Lục Tổ lấy Đàn kinh làm căn cứ chủ yếu. Nhưng những năm gần đây có những học giả nêu lên quan điểm khác nhau, học giả Phật học nổi tiếng Lữ Trừng nhận định: “Căn cứ Đàn kinhđể nghiên cứu về Huệ Năng, đây không thể tin cậy”.[8]Bởi Đàn kinh được lưu truyền với thời gian dài và trải qua quá trình không ngừng bổ sung khảo đính của các đại sư học giả, như Thiền sư Thần Hội hay cao tăng Khế Tung, rồi hình thành nhiều bản khác nhau. Nhất là sau khi khai quật thạch động Đôn Hoàng đã phát hiện nhiều cổ bản điển tịch liên hệ Đàn kinh. Tư tưởng trong kinh này không hoàn toànđại biểu của Huệ Năng, nhưng phần nhiều vẫn lấy tư tưởng Huệ Năng làm nền móng, “hiện nay nên lấy Lục Tổ Huệ Năng Thiền sư bi minh  của Vương Duy làm căn cứ.”[9]

Thiền tông lấy Đàn kinh để truyền tông. Lục Tổ chủ trương ‘tức tâm tức Phật”, ‘đốn ngộ thành Phật’; chẳng cần ‘tông thông’ (宗通) hay ‘thuyết thông’ (说通), lìa giáo mà tham là tà nhân, rời giáo mà ngộ là tà giải, nhằm nêu bật cái ý này mà hậu duệ của Thiền tông diễn hoá và lưu truyền 4 câu: “Tông thông không tông giáo, mở lời sẽ loạn đạo. Thông giáo chẳng thông tông, giống như rồng một mắt”, và “đều chịu ảnh hưởng trực tiếp từ thiền Đạt-ma.”[10]

Tư tưởng “đốn ngộ”, “tức tâm tức Phật”, chủ trương ‘tam vô’ (三无), lấy “vô niệm làm tông”, “vô tướng làm thể”, “vô trụ làm gốc”, là phạm trù căn bản về nhận thức của Lục Tổ[11]. Đều ảnh hưởng sâu đậm và lấy kinh Lăng-già, kinh Viên Giác, kinh Kim Cang làm kinh điển căn bản. Thông qua cách thức truyền pháp tâm yếu, tham ngộ ấn chứng, thí hoá phương tiện; xuyên qua đối đáp, biện luận, tham cứu giữa thầy và trò, giữa Thiền sưhọc sĩ du phương tham học mà biên thành ngữ lục.[12]

Về khía cạnh triết học ngôn ngữ, ‘phương tiện pháp môn’ được trải dài trên trang tôn kinh. Như kinh Pháp Hoa mượn hình tượng ba xe: xe hưu, xe dê, xe nai để thuyết minh về ba cấp độ thánh quả của Đại thừakinh Kim Cang mượn hình ảnh thanh kiếm trí tuệ (tuệ kiếm) để chắt đứt hàng rào thần ngã hay bốn tướng (ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả). Trong nghi cũng vậy, cổ đức mượn ngôn từ biểu tượng mộc mạc để bày tỏ tấc lòng thanh khiết như cỏ thơm. Như khi dâng hiến đến bậc tôn sư ‘kế vãng khai lai’, khai sơn chùa, ân sư, tiền bối hữu công, tiền hậu công đức thì gọi phẩm vật là rau Tào khê, cơm Hương tích, gạo Thiên trù, thanh thuỷ hương tuyền (suối thơm nước trong). Thành duy thức luận nói về thức thứ 6 a-lại-da thức cũng mượn cảnh tượng “Chảy mãi như thác đổ; Hằng chuyển như bộc lưu” để biểu đạt. Cảnh giới văn học Thiền tông, cấu trúc ẩn dụ—‘đàm ẩn dụ nhân’ được dùng đến rất nhiều, như gió thổi cờ lay, trăng Lăng-già hay say sưa đại định Lăng-nghiêm, đều chỉ cho cảnh giới tối cao trong thiền tĩnh. Mượn đàm thiền “Một hoa nở năm lá; Nhất hoa khai ngũ diệp”, nhằm phiếm chỉ Sơ tổ Thiền tông Bồ-đề Đạt-ma từ Đông Độ truyền pháp đến Nhị tổ Huệ Khả và đến Lục tổ Huệ Năng”. Trong thư pháp thiền có truyền tụng câu “nhất hoa nhất thế giới, nhất diệp nhất Như Lai”, trong cành hoa ngọn cỏ hiện bày cả thế giới, trong ngọn lá hoá hiện đức Như Lai. Thiền sư Linh Vân thấy hoa đào nở bèn ngộ đạo, nghe ngọn bách thảo đong đưa liền tỏ ngộ hay nghe hạt sỏi rơi lốp đốp bên dưới rặng tre, đều là biểu tượng về cảnh vật thiên nhiên và bất chợt ‘đốn ngộ thành Phật’ của thiền giả.

Từ lúc sáng lập phả mạch Tào Khê mãi đến hôm nay, có bề dầy lịch sử lâu đời, hương khói Tào Khê vẫn ướm thịnh, nơi quy tập và hoằng đạo của Đại sư như Hám Sơn, Đan Điền hay Hư Vân, dòng chảy này vẫn không ngớt lưu truyền, là thánh địa nổi tiếng nên mỗi ngày khách hành hương đến tấp nập và dâng tấc dạ khẩn cầu đạo giải thoátthánh địa này. Và “thiền pháp của Huệ Năng là một thứ tôn giáo và một thứ học thuyết xuyên qua nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn học, nghệ thuật”[13]nên phát sinh rộng rãiảnh hưởng rất sâu sắc.

Trích từ: Chú giải nghi Huế (bản cảo)

Phổ Đà, Xuyên Mộc, BRVT



[1] “Tào khê thuỷ, Nhất phái hướng đông lưu, Quán Âm bình nội trừ tai cựu, Đề hồ quán đỉnh đich trần cấu, Dương chi sái xứ nhuận tiêu khô, Yết hầu trung cam lồ, Tự hữu quỳnh tương khấu. Nam mô Hương cúng dường Bồ-tát” (nếu lễ khai kinh thì  Nam mô Thanh lương địa Bồ-tát)

[2]Nghi Huế gọi Sám chủ, nghi Nam gọi Thầy cả, nghi Trung gọi Gia trì sư, khảo cứ Chánh khắc trung khoa du-già tập yếu vào mùa đông niên hiệu Đồng Khánh năm Mậu tý của tạng bản Sắc tứ Báo Quốc tự thì viết là Pháp chủ (法主). Đều là vận tâm bình đẳnghành trì pháp thức ‘Gia trì hiển mật’ (加持显密)  

[3] Huỳnh Hạ Niên, Thích Trung Nghĩa dịch, Lịch sử Phật giáo Trung Hoa cổ đại, tủ sách Đạo Phật ngày nay, Nxb. Hồng đức, 2014, tr. 28

[4] sđd

[5] tham khảo Huỳnh Hạ Niên chủ biên, Thiền tông tam bách đề ( 禅宗三百题), phần ‘Tổng luận, Thiền’ của Huỳnh Hạ Niên, Nxb. Cổ tịch Thượng Hải, 2000, tr.1

[6] Thiền tông tam bách đề, phần ‘Giáo nghĩa, thuật ngữ’ của Ôn Kim Ngọc (温金玉), tr.288

[7] tham khảo Hoà thượng Hư VânTái tăng đính Phật Tổ đạo ảnh, q.4

[8] Lữ TrừngTrung Quốc Phật học nguyên lưu lược giảng, Nxb. Thư cục Trung Hoa, 1979, tr.222

[9] Sđd, 223

[10] tham khảo Huỳnh Hạ Niên chủ biên, Thiền tông tam bách đề , phần “Tích giáo ngộ tông  (惜教悟宗) là gì?” của Ôn Kim Ngọc (温金玉), tr.290

[11] Sđd, phần “Đặc sắc của Huệ Năng thiền là gì” của Huỳnh Xuân Hoà (黃春和),tr.137

[12] tham khảo Huỳnh Hạ Niên chủ biên, Phật quang phổ chiếu-Phật giáo (佛光普照-佛教) , Thế giới tôn giáo sử thoại tùng thư, Nxb. Tri thức thế giới, 1999, tr.234

[13] Huỳnh Hạ Niên chủ biên, Thiền tông tam bách đề, phần “Đặc sắc của Huệ Năng Thiền như thế nào ?” của Huỳnh Xuân Hoà, tr.137

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10611)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11318)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12853)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10903)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16862)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10902)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23099)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12174)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11584)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10765)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12414)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11277)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10109)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10402)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 12033)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10799)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12445)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9900)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11352)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13906)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9642)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12722)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9793)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10539)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10665)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10388)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9995)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11125)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12078)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10223)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10858)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9616)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9985)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8855)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9560)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14614)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8849)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12640)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10515)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9172)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10639)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9398)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8869)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10592)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9291)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8428)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12117)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9770)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10269)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10282)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19285)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9482)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9048)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9641)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9068)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14863)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10159)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8420)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 9006)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9043)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8825)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9428)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14721)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9097)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8850)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9102)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10614)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8712)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10070)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24414)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10250)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11112)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9086)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9551)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8092)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9342)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15467)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10425)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9636)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17560)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21593)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12233)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10296)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19391)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26210)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8028)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14914)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10704)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11417)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9590)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18795)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12460)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11985)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10836)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13430)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10089)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9338)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9450)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15985)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25767)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant