Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Sư Daisetsu Teitaro Suzuki, Người Đưa Thiền Vào Mỹ

23 Tháng Giêng 202119:35(Xem: 5018)
Thiền Sư Daisetsu Teitaro Suzuki, Người Đưa Thiền Vào Mỹ

Thiền Sư Daisetsu Teitaro Suzuki, Người Đưa Thiền Vào Mỹ

 

Huỳnh Kim Quang

 

Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giảthiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệthấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.

Trong lời giới thiệu cho tác phẩm “An Introduction to Zen Buddhism” [Giới Thiệu Thiền Phật Giáo] của Suzuki được xuất bản năm 1949, nhà tâm phân học nổi tiếng Carl G. Jung đã viết rằng, “Các tác phẩm của Suzuki về Thiền Tông là nằm trong số những đóng góp tốt nhất cho sự hiểu biết về Phật Giáo sống động mà nhiều thập niên gần đây đã tạo ra… Chúng tôi không thể nói hết sự biết ơn đối với tác giả.”

 

Cuộc đời của Thiền Sư Daisetsu Teitaro Suzuki

 

Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản, theo www.en.wikipedia.org. Có nơi nói ông sinh vào tháng 10, nhưng năm sinh của ông thì tất cả tài liệu đều giống nhau. Ông sinh ra tại Honda-machi, Kanazawa, Quận Ishikawa, Nhật Bản. Ông là người con trai thứ tư trong gia đình mà người cha là y sĩ Ryojun Suzuki. Pháp Danh Daisetsu của ông đã được Thầy Bổn Sư của ông là Thiền Sư Soyen Shaku [Thích Tông Diễn] ban cho. Thiền Sư Soyen Shaku cũng là người đầu tiên dạy Thiền ở Mỹ. Giai cấp võ sĩ đạo mà Suzuki được sinh ra đã suy tàn với sự sụp đổ của chế độ phong kiến, buộc mẹ của ông là nữ Phật tử Jōdo Shinshū đã nuôi dưỡng ông trong hoàn cảnh nghèo đói sau khi cha của ông qua đời. Khi ông đủ lớn khôn để suy nghĩ về số phận của mình được sinh trong bối cảnh này, ông bắt đầu tìm câu trả lời trong nhiều hình thức khác nhau của tôn giáo. Trí tuệ bén nhạy và sâu sắc tự nhiên của ông đã khó chấp nhận một số vũ trụ quan mà ông đã gặp.

Suzuki đã học tại Đại Học Waseda University và University of Tokyo. Suzuki tập trung vào việc học các thứ tiếng Trung Quốc, Bắc Phạn [Sanskrit], Nam Phạn [Pali], và nhiều ngôn ngữ Tây Phương khác. Trong những năm học tại University of Tokyo, Suzuki đã đến thực hành Thiền tại Chùa Engaku-ji [Viên Giác Tự] tại thành phố Kamakura.

Suzuki đã sống và học nhiều năm với triết gia, học giả và nhà văn người Mỹ gốc Đức Paul Carus. Suzuki biết được Carus qua sự giới thiệu của Thiền Sư Soyen Shaku, nhân khi gặp ông ấy tại Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới được tổ chức tại Chicago vào năm 1893. Carus lúc đó sống tại thành phố LaSalle thuộc tiểu bang Illinois đã đến gặp Soyen Shaku để nhờ ngài giúp chuyển dịch và chuẩn bị tác phẩm văn chương tinh thần Đông Phương để xuất bản tại Tây Phương. Soyen Shaku đã đề nghị môn đệ của mình là Suzuki giúp làm việc này. Suzuki sống tại nhà của Carus, đúng hơn là Dinh Thự Hegeler Carus, và làm việc với ông, lúc đầu dịch cuốn Đạo Đức Kinh của Lão Tử từ chữ Hán cổ. Tại Illinois, Suzuki bắt đầu phác thảo tác phẩm “Outlines of Mahayana Buddhism” [Đại Cương Về Phật Giáo Đại Thừa].

Riêng Carus thì đã viết cuốn sách đưa ra cái nhìn sâu hơn và tổng quan về Phật Giáo, có tựa đề “The Gospel of Buddha” [Giáo Thuyết Của Đức Phật]. Thiền Sư Soyen Shaku đã viết giới thiệu cho cuốn sách này, và Suzuki đã dịch cuốn sách sang tiếng Nhật. Lúc đó, sắp bước sang thế kỷ mới, khá nhiều người Tây Phương và Á Châu (gồm Carus, Soyen, và Suzuki) tham gia vào công cuộc phục hưng Phật Giáo trên toàn thế giới mà đã bắt đầu từ từ vào thập niên 1880s.

Vào năm 1911, Suzuki kết hôn với Beatrice Erskine Lane, một sinh viên tốt nghiệp Trường Radcliffe và là tín đồ thông thiên học với nhiều liên hệ với Đạo Bahá’i tại Mỹ và Nhật.

Ngoài việc sống ở Hoa Kỳ, Suzuki cũng đi qua Châu Âu trước khi trở về Nhật làm giáo sư. Vào năm 1909, Suzuki làm phụ tá giáo sư tại Đại Học Gakushuin và tại Đại Học Tokyo. Suzuki và người vợ đã cống hiến tận tình cho sự truyền bá kiến thức về Phật Giáo Đại Thừa. Cho đến năm 1919 họ sống tại một căn nhà thô sơ trên khu đất của Chùa Viên Giác, rồi dọn về Kyoto, nơi Suzuki bắt đầu làm giáo sư thực thụ tại Đại Học Ōtani University vào năm 1921. Trong khi ông ở Kyoto, ông đã đến viếng thăm Tiến Sĩ Hoseki Shin'ichi Hisamatsu, một học giả Phật tử Thiền, và họ đã cùng nhau thảo luận về Thiền tại Shunkō-in [Xuân Quang Viện] trong quần thể của Myōshin-ji [Diệu Tâm Tự].

Năm 1921, năm mà ông dạy tại Đại Học Ōtani, ông và vợ đã sáng lập Hội Phật Giáo Đông Phương. Hội này tập trung vào Phật Giáo Đại Thừacung cấp các bài giảng và các buổi hội luận, và xuất bản tạp chí học thuật có tên The Eastern Buddhist [Phật Tử Đông Phương]. Suzuki vẫn duy trì các mối quan hệ với Tây Phương, chẳng hạn, đọc tham luận tại Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới vào năm 1936, tại Đại Học London (ông là giáo sư trao đổi trong năm này).

Ngoài việc dạy về thực hành Thiền và lịch sử Thiền Tông, Suzuki còn là một học giả chuyên môn về triết học tương quan, mà trong tiếng Nhật gọi là Kegon, mà ông cho là sự diễn giải trí tuệ của kinh nghiệm Thiền.

Là giáo sư triết học Phật Giáo trong những thập niên giữa thế kỷ hai mươi, Suzuki đã viết nhiều bài giới thiệunghiên cứu tổng quát về Phật Giáo, và đặc biệt về Thiền Tông. Ông đã thực hiện chuyến đi thuyết trình tại các đại học Mỹ vào năm 1951, và đã dạy tại Đại Học Columbia từ năm 1952 tới 1957.

Suzuki đặc biệt thích thú vào các thế kỷ hình thành của truyền thống Phật Giáo tại Trung Hoa. Nhiều bài viết của Suzuki bằng tiếng Anh liên quan đến các bản dịch và thảo luận của nhiều văn bản Thiền như Biyan Lu (Blue Cliff Record – Bích Nham Lục) và Wumenguan (Mumonkan/Gateless Passage – Vô Môn Quan), đã ghi lại các cách dạy và những lời dạy của các thiền sư Trung Hoa thời xưa. Ông cũng thích thú trong cách mà truyền thống này, đã từng được du nhập vào Nhật Bản, đã ảnh hưởng đến tính cáchlịch sử Nhật Bản, và đã viết về điều này bằng tiếng Anh trong Thiền và Văn Hóa Nhật Bản

Ngoài các tác phẩm về Đông Phương nổi tiếng, Suzuki đã dịch Kinh Nhập Lăng Già (Lankavatara Sutra) và viết chú giải về thuật ngữ tiếng Phạn của bộ Kinh này. Ông đã xem xét những nỗ lực của Saburō Hasegawa, Judith Tyberg, Alan Watts và những người khác là những người làm việc trong Viện Nghiên Cứu Á Châu California (California Academy of Asian Studies) mà hiện được biết là California Institute of Integral Studies, tại San Francisco vào thập niên 1950s. Trong những năm cuối đời, ông bắt đầu khám phá niềm tin Jōdo Shinshū [Tịnh Độ Chân Tông] của mẹ ông, và đã giảng dạy về Phật Giáo Tịnh Độ Chân Tông tại các Giáo Hội Phật Giáo Mỹ.

Suzuki đã thực hiện dang dở việc dịch sang tiếng Anh về Kyogyoshinsho [Giáo Hạnh Tín Chứng], giáo thuyết quan trọng của ngài Shinran [Thân Loan], là vị tị tổ của Tịnh Độ Chân Tông. Tuy nhiên, Suzuki đã không cố gắng phổ biến giáo nghĩa Tịnh Độ tại Tây Phương, vì ông tin rằng Thiền là thích hợp với sở thích Tây Phương đối với sự huyền bí của Đông Phương, dù ông được trích thuật nói rằng Phật Giáo Tịnh Độ Chân Tông là “sự phát triển đáng chú ý nhất của Phật Giáo Đại Thừa đã từng du nhập vào Đông Á.” Suzuki cũng thích thú với sự thần bí Thiên Chúa Giáo và trong một số sự thần bí quan trọng nhất của Tây Phương, thí dụ, Meister Eckhart, là người mà ông so sánh với các truyền nhân của Tịnh Độ Chân Tông gọi là Myokonin [Diệu Hảo Nhơn]. Suzuki cũng là người đầu tiên mang nghiên cứu về Myokonin cho các khán giả ngoài Nhật Bản.

Các tác phẩm khác của ông gồm “Essays in Zen Buddhism” [Thiền Luận – 3 cuốn, đã được Trúc Thiên và Thích Tuệ Sỹ dịch sang tiếng Việt tại Việt Nam trước năm 1975], “Studies in Zen Buddhism” [Nghiên Cứu Về Phật Giáo Thiền], và “Manual of Zen Buddhism” [Cẩm Nang Về Phật Giáo Thiền].

Triết gia người Mỹ William Barrett đã biên soạn nhiều bài viết và khảo luận của Suzuki liên quan đến Thiền trong tuyển tập có tên “Zen Buddhism” được xuất bản vào năm 1956.

 

Quan điểm của Suzuki về Thiền

 

Thầy của Suzuki, thiền sư Soyen Shaku, đã viết sách xuất bản tại Hoa Kỳ do Suzuki dịch sang tiếng Anh, đã nhấn mạnh đến gốc rễ Phật Giáo Đại Thừa của truyền thống Thiền. Suzuki thì có quan điểm khác. Theo ông trong nhiều thế kỷ phát triển tại Trung Hoa, Thiền đã hấp thụ nhiều từ Lão Giáo của Trung Hoa bản địa. Suzuki tin rằng các dân tộc Viễn Đông nhạy bén, hay thích ứng, đối với thiên nhiên hơn người Âu Châu hay những người ở miền Bắc Ấn Độ.

Suzuki cho rằng sự giác ngộ của Thiền là mục đích của sự tu tập của truyền thống này, nhưng điều đó là những gì làm nổi bật truyền thống mà nó đã phát triển qua nhiều thế kỷ tại Trung Hoa là cách sống hoàn toàn khác từ các Phật Tử Ấn Độ, theo tác phẩm “Zen and Japanese Culture” [Thiền và Văn Hóa Nhật Bản] của Suzuki do Nhà Xuất Bản của Đại Học Princeton xuất bản năm 1970. Tại Ấn Độ, truyền thống của những vị khất sĩ đã thịnh hành, nhưng trong hoàn cảnh xã hội Trung Hoa dẫn tới sự phát triển của chùa chiền và hệ thống tập trung tu tập mà trong đó vị trú trì và các tăng sĩ đều thực hiện các công tác thế gian. Những việc này gồm việc làm vườn, làm ruộng, làm thợ mộc, làm kiến trúc, giữ nhà, làm hành chánh, và làm thầy thuốc. Hệ quả là sự giác ngộ tìm kiếm trong Thiền phải đáp ứng tốt đối với các nhu cầu và những thất vọng có thể có của cuộc sống hàng ngày.

Suzuki thường được liên kết với trường phái triết học của Kyoto, nhưng ông không được xem là một trong những thành viên chính của nó. Suzuki thích thú trong nhiều truyền thống khác ngoài Thiền. Sách Thiền và Phật Giáo Nhật Bản của ông đã đi sâu vào lịch sửphạm vi quan tâm của tất cả các trường phái Phật Giáo Nhật Bản chính.

Trong lúc học tại Đại Học Tokyo, Suzui đã thực hành Thiền tại Viên Giác Tự ở Kamakura lúc đầu với Kosen Roshi. Sau khi Kosen viên tịch, Suzuki tiếp tục học Thiền với người kế nhiệm Kosen tại Viên Giác Tự là Soyen Shaku.

Soyen Shaku dạy Suzuki chủ yếu là nội quán, tĩnh lặng, vô ngôn, ngồi thiền thật nhiều. Suzuki đã mô tả 4 năm học này là cuộc chiến tinh thần, thể chất, đạo đứctrí tuệ. Trong thời gian tại Viên Giác Tự, Suzuki sống đời sống một tu sĩ. Ông diễn tả cuộc sống này và kinh nghiệm tại Kamakura trong cuốn sách của ông “The Training of the Zen Buddhist Monk” [Sự Tu Tập của Một Tu Sĩ Phật Giáo Thiền]. 

Suzuki đã miêu tả các khía cạnh của việc tu tập như là: một cuộc sống khiêm tốn; cuộc sống lao động; cuộc sống phụng sự; cuộc sống cầu nguyệntri ân; và cuộc sống thiền định.

Trong phần tổng luận của tác phẩm “Essays in Zen Buddhism” của Suzuki do Trúc Thiên dịch sang tiếng Việt với tựa đề “Thiền Luận,” Suzuki viết về cốt tủy của Thiền như sau: 

“Thiền, cốt yếu nhất, là nghệ thuật chiếu kiến vào thể tánh của chúng ta; nó chỉ con đường từ triền phược đến giải thoát. Đưa ta đến uyên nguyên của cuộc sống uống ngụm nước đầu nguồn, Thiền cởi bỏ tất cả những gì ràng buộc chúng ta, những sinh linh hữu hạn, luôn luôn quằn dưới ách khổ lụy trong thế gian này. Ta có thể nói Thiền khai phóng tất cả năng lực nội tại và tự nhiên tích tập trong mỗi người chúng ta, nguồn năng lực ấy, trong hoàn cảnh thường, bị co rút lại, và vặn tréo đi, đến không vùng thoát đâu được. 

“Thật vậy, thân thể ta có thể ví như một cục “pin” điện, trong ấy tiềm phục một năng lực huyền bí. Khi nguồn nội lực ấy không được vận dụng đúng cách thì, hoặc bị mốc meo mà mai một, hoặc nghịch biến mà phát loạn. Nên đó là chủ đích của Thiền, nhằm cứu ta hoặc khỏi khùng điên, hoặc khỏi tàn phế. Tôi muốn nói tự do là vậy, mở thông tất cả nguồn kích động đầy sáng tạo và từ hòa ấp ủ trong con tim chúng ta.”

Trong Chương Thứ Năm của bộ “Thiền Luận” (bộ sách này gồm 3 cuốn, Trúc Thiên dịch cuốn một rồi qua đời, Hòa Thượng Tuệ Sỹ đã tiếp tục dịch cuốn hai và ba) do Trúc Thiên dịch, Suzuki cũng đã lần nữa nhấn mạnh vào điểm cốt lõi giác ngộ của Thiền.

“Tinh yếu của Thiền cốt ở một nhỡn quang mới phóng vào cuộc sống, và vũ trụ nói chung. Thế nghĩa là, để thâm nhập trong đạo Thiền, ta phải vứt bỏ tất cả nếp cảm nghĩ thông thường điều khiển cuộc sống hằng ngày của chúng ta để cố tìm coi biết đâu còn có một đường lối nhận định khác hơn thói thường, hoặc nói đúng hơn, thử xem lối nhận định thông thường có đủ để đáp ứng trọn vẹnrốt ráo những đòi hỏi của tâm hồn ta không. Nếu ta vẫn cảm thấy không vừa ý gì đó với cuộc sống này, nếu có cái gì trong nếp sống hằng ngày khiến ta như bị vướng mắc, thiếu tự do, theo nghĩa thiêng liêng nhất, ắt ta phải thử tìm ra một cái gì khác ngỏ hầu cuộc sống ta có được một cảm giác ổn định và thoải mái. Thiền đề nghị làm việc ấy cho ta, và đoan chắc có được cái nhìn mới ấy thì cuộc đời sẽ diễn ra trong một khuôn mặt tươi mát hơn, thâm trầm hơn, và thỏa đáng hơn.”

 

Truyền bá Thiền tại Mỹ

 

Triết gia Charles A. Moore cho rằng Suzuki trong những năm sau cùng của cuộc đời không chỉ là nhà báo tường trình về Thiền, không chỉ là một nhà giải thích, nhưng là một người đóng góp rất lớn cho sự phát triển của Thiền.

Thiền đã được truyền bá vào Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ thứ 19 bởi các vị Thầy Nhật Bản là những người đến Mỹ để phục vụ các nhóm di dân Nhật Bảntrở thành quen với văn hóa Mỹ, theo www.en.wikipedia.org. 

Sau Thế Chiến Thứ Hai, sự thích thú từ những người Mỹ không phải Á Châu đã gia tăng nhanh chóng. Điều này dẫn đến sự khởi đầu của truyền thống Thiền Mỹ bản địa mà cũng ảnh hưởng rộng lớn đến thế giới tây phương.  

Vào năm 1893, Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới đã được tổ chức tại Chicago. Nó là một sự kiện để giới thiệu các tôn giáo Châu Á cho các khán giả tây phương. Dù hầu hết các phái đoàn tới dự Đại HộiThiên Chúa Giáo của nhiều giáo phái khác nhau, các quốc gia Phật Giáo như Trung Hoa, Nhật Bản, Thái Lan, và Tích Lan cũng đã gửi các đại diện đến dự.

Thiền Phái Lâm Tế Nhật Bản đã được đại diện bởi thiền sư Soyen Shaku [Thích Tông Diễn], là sư phụ của D.T. Suzuki. Các đại diện Phật Giáo khác gồm nhà thông dịch người Nhật Zenshiro Noguchi; Anagarika Dharmapala, giáo sư Tích Lan; và Chandradat Chudhadharn là anh em của Vua Thái Lan Chulalongkorn. Paul Carus cũng đã tham dự Đại Hội như một quan sát viên. Đại Hội lần đầu tiên tổ chức diễn đàn công khai mà trong đó các Phật Tử có thể diễn thuyết với thế giới Tây Phương. Dharmapala đã gây được ảnh hưởng đặc biệt bởi vì ông nói thông thạo tiếng Anh.

Vào đầu thế kỷ hai mươi, Thiền Lâm Tế là truyền thống Thiền Phật Giáo đầu tiên đã du nhập để bén rễ tại Bắc Mỹ. Dù Soyen Shaku, Nyogen Senzaki và Sokei-an là những thiền sư đầu tiên tiếp cận với khán giả tây phương, nhưng người duy nhấtảnh hưởng quan trọng là D.T. Suzuki. Suzuki đã truyền bá Thiền với các tác phẩm tiếng Anh của ông. 

Vào năm 1951, D.T. Suzuki trở lại Hoa Kỳ để làm giáo sư thỉnh giảng tại Đại Học Columbia, nơi các lớp giảng của ông đã thu hút nhiều người thuộc thành phần ưu tú trong giới văn học, nghệ thuật, và văn hóa. Vào năm 1958, báo Chicago Review đã thực hiện một chủ đề đặc biệt về Thiền, giới thiệu các tác phẩm của các nhà thơ thuộc Thế Hệ Beat cùng với các tác phẩm Thiền được chuyển dịch.

Sau khi Suzuki đặt viên đá đầu tiên để xây dựng ngôi nhà Thiền tại Mỹ, từ đó Thiền đã tiếp tục được truyền bá rộng rãi tại xứ Cờ Hoa, với nhiều vị thiền sư lỗi lạc như Thiền Sư Tuyên Hóa của Trung Hoa, Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh của Việt Nam, và nhiều vị tu sĩcư sĩ từ các nước Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan đã truyền bá phương pháp Thiền Chánh Niệm, v.v… 

Ngày nay, Thiền Phật Giáo đã được phổ biến khắp Hoa Kỳ và trên thế giới để đáp ứng nhu cầu tâm linh và cuộc sống tại các xã hội văn minh vật chất Tây Phương như một phương pháp trị liệu hữu hiệu đối với đời sống dẫy đầy căng thẳng, bất an và khủng hoảng.

 

thien-su-suzuki

Thiền Sư D.T. Suzuki người đầu tiên đưa Thiền vào Mỹ.(www.brainpickings.org)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18633)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16171)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 30000)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25568)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21702)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17884)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20871)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26400)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33422)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52265)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22942)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23462)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39734)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21853)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22469)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6903)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22781)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69904)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44117)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23174)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35146)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44181)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42979)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44518)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24971)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24431)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39303)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39341)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17308)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18102)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19322)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35744)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24287)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19672)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20466)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18373)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19099)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18998)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17549)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19386)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30954)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19268)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20589)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19640)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19845)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29920)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17884)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19470)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19935)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58864)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24459)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23605)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39845)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26770)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40840)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22936)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22994)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21664)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18697)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22633)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21123)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19275)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20992)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20406)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30612)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20236)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17516)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16657)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16923)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14996)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14896)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22938)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16096)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16268)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15315)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26236)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17264)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15891)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19884)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17772)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14765)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14816)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19224)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15218)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33138)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17577)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19207)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21889)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23132)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16704)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16572)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16634)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23097)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26509)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12825)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29630)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27846)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 26019)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18522)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 15639)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant