Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dudjom Rinpoche

21 Tháng Tư 201200:00(Xem: 33073)
Dudjom Rinpoche

DUDJOM RINPOCHE

dudjomrinpoche-1 

Kyabje Dudjom Rinpoche (1904 – 1987) – một trong các yogi, học giảđạo sư thiền định lỗi lạc của Tây Tạng. Ngài được công nhậnhóa thân của Đức Dudjom Lingpa (1835 – 1904), các hóa thân đời trước gồm có các đạo sư, yogi và học giả vĩ đại nhất như ngài Shariputra [Xá Lợi Phất], Saraha và Khye’u Chung Lotsawa. Được coi là Đại diện của Đức Liên Hoa Sinh, ngài là tác giả lớn và một người phát lộ “kho báu” (terma) được chôn giấu bởi ngài Liên Hoa Sinh. Là một tác giả lớn và một học giả cẩn thận, ngài Dudjom Rinpoche viết hơn 40 bản, trong đó nổi tiếng nhất là tác phẩm đồ sộ Những nguyên tắc và Lịch sử của truyền thống Nyingma.

Trong hơn 10 năm cuối đời, ngài giành rất nhiều thời gian để giảng dạy ở phương Tây, nơi ngài giúp đỡ thiết lập truyền thống Cổ Mật, thành lập các trung tâm lớn ở Pháp và Mỹ.

Đức Pháp vương Dudjom Rinpoche, Jigdral Yeshe Dorje, là một trong các bậc yogi, học giảđạo sư thiền định xuất chúng nhất của thời hiện đại, người đã đem đến sự kính phục cho những người đã gặp, mà còn là lòng sùng mộ và yêu mến sâu sắc. Sau cuộc bỏ chạy của những người Tây Tạng đến vùng lưu vong, chính Đức Dudjom Rinpoche là đạo sư đầu tiên phù hợp với chức vị Lãnh Đạo Tối Cao truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, truyền thống “cổ nhất” được đưa đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8 bởi Đức Đạo sư Liên Hoa Sinh.

Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh. Ngài được nhận rahóa thân của Đức Dudjom Lingpa (1835 – 1904), một vị terton nổi tiếng – người phát lộ những kho báu terma, đặc biệt là những terma liên quan đến thực hành Vajrakilaya. Đức Dudjom Lingpa đã có ý định viếng thăm miền Nam Tây Tạng để phát lộ vùng đất Pemako linh thiêng, nhưng bởi ngài không thể làm như vậy, ngài đã tiên đoán rằng người kế nhiệm sẽ sinh ra ở đó và phát lộ vùng đất.

Thời trẻ, Đức Dudjom Rinpoche đã học với các đạo sư vĩ đại nhất của thời đó. Ngài bắt đầu việc nghiên cứu với Khenpo Aten ở Pemako, trước khi tham gia vào một số học viện tu sĩ lớn ở miền trung Tây Tạng – như là Mindrolling, Dorje Drak và Tarje Tingpoling – và miền Đông Tây Tạng – như Kathok và Dzogchen. Nhưng chính Mindrolling là nơi ngài quay trở về để hoàn thiện kiến thức của ngài về truyền thống Nyingma. Nổi tiếng nhất trong các đạo sư của ngài là Đức Phungong Tulku Gyurme Ngedon Wangpo, Jedrung Trinle Jampa Jungne, Gyurme Phendei Ozer và Minling Dordzin Namdrol Gyatso.

Vùng hoạt động chính của Dudjom Rinpoche là miền trung Tây Tạng, nơi ngài duy trì truyền thống Mindrolling, và đặc biệt là ở Pema Choling và các trụ xứ khác của ngài ở Kongpo và Puwo ở miền Nam Tây Tạng. Ngài trở nên nổi tiếng khắp Tây Tạng với sự chứng ngộ tâm linh sâu sắc, cũng như trí tuệ vô song.

Rất đặc biệt khi nhận được trao truyền của toàn bộ các giáo lý đang tồn tại của truyền thống Nyingma rộng lớn, Dudjom Rinpoche đặc biệt nổi tiếng là một terton vĩ đại, với các terma được giảng dạy và thực hành rộng rãi hiện nay, và là đại diện tiêu biểu của Dzogchen, giáo lý tối thượng của Phật giáo Tây Tạng. Trên tất cả, ngài được coi là hiện thân của Đạo sư Liên Hoa Sinh và các đại diện của ngài trong thời điểm này. Một đạo sư của các đạo sư, ngài được công nhận bởi các đạo sư Tây Tạng xuất chúng trong thời đại của ngài là sở hữu sức mạnh và sự gia trì lớn lao nhất trong việc liên hệ với bản tánh của tâm, và các ngài thường giới thiệu đệ tử đến Rinpoche khi chuẩn bị cho sự trao truyền “tâm trực tiếp.” Trên thực tế, Dudjom Rinpoche là bậc đạo sư gốc của rất nhiều các vị thầy xuất chúng nhất hiện nay.

 dudjomrinpoche-2-content

Ngài còn rất nổi tiếng là một tác giảhọc giả cẩn thận. Các trước tác của ngài nổi tiếngkiến thức rộng lớn mà chúng hiển bày với mọi truyền thống khác nhau của việc nghiên cứu Phật giáo, bao gồm cả thơ, lịch sử, dược, chiêm tinh và triết học. Một tác giả của các bài thơ đầy cảm xúc với vẻ đẹp hấp dẫn, ngài có trí tuệ đặc biệt trong việc diễn tả ý nghĩa và sự chứng ngộ Dzogchen với sự minh triết tuyệt vời như pha lê.

Trong số các tác phẩm được đọc nhiều nhất, có cuốn Truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, Những nguyên tắc cơ bản và Lịch sử, được ngài biên soạn ngay sau khi đến Ấn Độ tỵ nạn và đã được dịch sang tiếng Anh. Lịch sử đồ sộ của truyền thống Cổ Mật là tác phẩm lớn, lần đầu tiên giới thiệu một lượng tài liệu lớn về sự phát triển của Phật giáoTây Tạng và sẽ là một tác phẩm đáng tin cậy về chủ đề này.

Với lời thỉnh mời của Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài Dudjom Rinpoche cũng viết một cuốn về lịch sử Tây Tạng. Một công trình quan trọng khác là bản chỉnh sửa của rất nhiều các bản văn cũ và mới, bao gồm Giáo lý Kinh điển của truyền thống Nyingma (Nyingma Kama), một sự đầu tư lớn mà ngài bắt đầu ở tuổi 74. Thư viện riêng của ngài chứa đựng một bộ sưu tập lớn nhất các bản thảo và sách quý giá bên ngoài Tây Tạng.

Sau khi rời khỏi Tây Tạng, đầu tiên ngài định cư ở Kalimpong, Ấn Độ, và sau đó là Kathmandu, Nepal. Đã có thời điểm dường như có sự đe dọa về việc biến mất nền văn hóa, ngài đã đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi văn hóa Tây Tạng trong cộng đồng lưu vong, thông qua cả giáo lý và các trước tác. Ngài đã thành lập các cộng đồng hành giả quan trọng ở Ấn Độ và Nepal, như là Zangdok Palri ở Kalimoing, Dudal Rapten Ling ở Orissa và các tu viện ở Tsopema và Boudhanath. Ngài khuyến khích mạnh mẽ sự nghiên cứu truyền thống Nyingma ở Học viện Tây Tạng nghiên cứu cao cấp ở Sarnath, và tiếp tục giảng dạy theo truyền thống terma của riêng ngài, cũng như ban rất nhiều các quán đảnh và trao truyền quan trọng, bao gồm Nyingma Kama, Nyingma Tantra [Mật điển Nyingma] và Kho tàng Terma quý báu (Rinchen Terdzo).

Khi Dudjom Rinpoche 8 tuổi, ngài bắt đầu học cuốn Bodhicharyavatara [Nhập Bồ-đề hành luận] của ngài Shantideva với vị thầy của ngài, Đức Orgyen Chogyur Gyatso, một đệ tử của Đức Patrul Rinpoche. Khi các ngài hoàn thành chương đầu tiên, vị thầy cho ngài một vỏ ốc và bảo ngài thổi nó về bốn phương. Âm thanh đến phương Đông và Bắc khá ngắn, phương Nam dài và Tây thì còn dài hơn. Điều này ám chỉ đến nơi các hoạt động của ngài sẽ hiệu quả nhất sau đó. Kham, một tỉnh ở miền Đông Tây Tạng, là nơi sinh ra của đức Dudjom Lingpa, người đã hoạt động tích cực ở vùng đó. Ở miền Nam, trong khắp vùng Hi Mã Lạp Sơn ở Bhutan, Sikkim, Nepal, Ladakh, ngài Dudjom Rinpoche có hàng ngàn đệ tử; vào một dịp khi ngài ban các giáo lý ở Kathmandu, với ý định chỉ giành cho vài Lama, từ 25 đến 30 ngàn các đệ tử đã đến từ khắp Ấn Độ và vùng Hi Mã Lạp Sơn.

Trong mười năm cuối cùng, dù sức khỏe giảm dần theo thời gian, ngài vẫn giành nhiều thời gian cho việc giảng dạy ở phương Tây, nơi ngài đã thành công trong việc thiết lập truyền thống Nyingma với sự thích thú đang phát triển của những người ở đây. Ngài thành lập rất nhiều trung tập chính bao gồm, Dorje Nyingpo và Orgyen Samye Choling ở Pháp, Yeshe Nyingpo, Urgyen Cho Dzong và nhiều trung tâm khác ở Mỹ. Trong giai đoạn lịch sử này, ngài đã không ngừng ban các giáo lýquán đảnh, dưới sự chỉ dạy của ngài, rất nhiều học trò phương Tây đã bắt đầu nhập thất lâu dài. Dudjom Rinpoche đã đến châu Á, và ở Hồng Kông, ngài cũng có rất nhiều đệ tử, với một trung tâm phát triển nơi ngài đến thăm ba lần.

Vào các năm 1972, 1976 và 1979, ngài đến thăm Luân Đôn theo lời thình mời của Sogyal Rinpoche, người đã đi cùng ngài trong các chuyến viếng thăm châu Âu như là người thông dịch và thị giả. Năm 1979, ngài giành tháng Năm ở trung tâm Dzogchen Orgyen Choling ở miền Tây Bắc Luân Đôn, sau này trở thành Rigpa. Ngài ban các buổi Pháp thoại cộng đồng, các quán đảnhgiáo lýtrung tâm Luân Đôn và các chỉ dẫn Dzogchen đặc biệt cho các nhóm nhỏ. Chính trong thời điểm này, một bộ phim độc đáo dài 16 phút được làm về ngài khi giảng dạy thực hành thiền định.

Các năm sau đó, Đức Dudjom Rinpoche xây dựng một số trung tâm nhập thất mùa hè ở Urgyen Samye Cholong ở Pháp. Cuối cùng, “Kẻ lang thang, Dudjom”, như rất nhiều lần ngài dùng để nói về mình, đã định cư ở vùng Dordogne, Pháp và ở đây vào tháng Tám, 1984, ngài ban các giáo lý cộng đồng rộng lớn cuối cùng.

Không nghi ngờ gì, Đức Dudjom Rinpoche là một đạo sư hoàn toàn chứng ngộ, tuy nhiên, mỗi ngày ngài vẫn dạy trước lúc bình minh để thực hành; mỗi buổi sáng ngài cầu nguyện cho tất thảy những ai đã quy y với ngài và buổi tối ngài cầu nguyện cho những người đã khuất. Ngài không ngừng cầu nguyện cho tất cả những người đã gặp ngài, nghe ngài nói và có liên hệ với ngài hay thậm chí là nghĩ về ngài có thể thoát khỏi khổ đau. Ngài luôn làm cho mình có thể được tiếp cận bởi mọi người từ mọi giai cấp, và bất kỳ ai may mắn gặp ngài chắc chắn sẽ cảm động vì sự ấm áp, giản đơn và khướu hài hước của ngài, cũng như họ đều kính phục bởi sự hiện diện, trí tuệ sâu sắc và việc nghiên cứu rộng lớn của ngài.

 

Việt dịch: Hạnh Phúc – Nhóm Thuận Duyên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18628)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21424)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22206)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16902)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 13445)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22834)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19027)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18480)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21645)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20056)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14097)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15032)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 17258)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15901)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13022)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13154)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 22679)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 19381)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37747)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 17927)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14582)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19739)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14659)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 15954)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 29863)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 17777)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 18548)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 19943)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 19118)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18587)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20715)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19433)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18550)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 29904)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 21615)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 20834)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26348)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 52168)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 21804)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 35051)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 17266)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18054)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19600)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 17483)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 30845)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19198)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 19569)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19776)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 19418)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 58793)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 19785)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 19149)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15144)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 17497)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19140)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 23028)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16629)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16500)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16543)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23002)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant