Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thubten Choling không xa

23 Tháng Hai 201300:00(Xem: 14144)
Thubten Choling không xa


Cứ mỗi dịp tết Losar của Tây Tạng từng đoàn Phật tử trên thế giới trong đó có nhiều đoàn Việt Nam lại hành hương về đất Phật ở Nepal để viếng các thánh tíchtham dự các lễ hội. Dịp này Phật tử Việt Nam lại đi về phía ánh sáng của Đức Phật trên Tu viện Thubten Choling ở vùng đất thiêng Solukhumbu.

Tình đạo hữu

Nhớ lại lần chúng tôi về Tu viện tháng 8 năm 2012, vậy mà đã 6 tháng trôi qua. NSƯT Minh Đức cảm động nhắc lại: “Nhớ Thubten Choling quá chừng, nhớ như in từng việc một trong những ngày ở trên ấy. Cứ như mình vừa mới ở Nepal về…”

Vâng, đó là tour hành hương do chúng tôi tự tổ chức sang Nepal. Một chuyến đi giàu có những kỷ niệm đẹp, mỗi lần nghĩ đến lại nao nao nhớ về tình bạn hữu lo cho nhau từng tí một trong chuyến đi.

Cái đêm rời Việt Nam ngủ tại sân bay Bangkok để sáng sớm bay đến Katmandu, tôi đang ngồi gặm bánh mì cũ “dai như quai guốc” thì chị Bê đến bên ngoắt tôi: “Chị ra đây uống thuốc”, chị đưa tôi tới chỗ chị Thảo ngồi cách tôi mấy dãy ghế. Chị Thảo đang ngồi tẩn mẩn với một bọc lủng củng các loại thuốc. Tôi chưa kịp hiểu gì thì chị Thảo nói: “Thuốc của bạn đây, ăn sáng đi rồi uống 2 viên Tuần hoàn não và Tanakan nhé”. Có lẽ các chị biết tôi bị huyết áp thấp và đau tiền đình nên đã lo cho tôi, tôi ngoan ngoãn làm theo, nhờ vậy khi ngồi máy bay đến Katmandu tôi tỉnh như sáo.

Rất may là tôi và NSƯT Minh Đức được thầy Trí Không xếp ở chung phòng với chị Thảo, chị Thảo đã từng đi Nepal nên có kinh nghiệm hơn. Vừa nhận xong phòng nghỉ thì 2 chúng tôi thấy chị Thảo biến mất hút. Lát sau thấy chị trở về trên tay cầm một bịch đựng mấy thứ rau. Chị đã gần 70 tuổi, chân ướt chân ráo chẳng quản mệt nhọc đã tranh thủ đi mua rau, còn tôi thì chỉ biết nằm tán dóc với chị Đức. Tôi kính nể đã gọi luôn chị Thảo là “chị cả”. Những ngày sau, ngoài những lúc tụng kinh và nhiễu Bảo tháp, chị lại nấu mì cho tôi và chị Đức ăn.

Vì tôi và chị Đức còn ngô nghê với Katmandu nên đã được chị hướng dẫn cách nhiễu Đại bảo tháp, chỉ chỗ lễ lạy, cách cúng dường hương trong khuôn viên Bảo Tháp, kinh nghiệm ăn uống, mua sắm Phật cụ v v… tôi lại gọi chị là… “sư tỷ”, nhưng thỉnh thỏng chúng tôi cũng chọc ghẹo nhau cười vui như khi còn trẻ. Chưa hết, cái túi tiền của dân nghèo thành thị của tôi quá khiêm tốn nên bị thiếu tiền mua sắm, chẳng chờ tôi hỏi vay, chị Thảo tự nguyện cho tôi vay thêm tiền, nhưng sau đó chính chị thiếu tiền lại đi vay người khác. Mấy nữ Phật tử ở Hà Nội và một số bạn nam tuổi teen đi cùng đoàn mỗi lần leo núi luôn đi gần những người lớn tuổi hay “cài số lùi” khi chùn chân mỏi gối dễ bị lạc. Suốt thời gian trên đất Phật, chúng tôi sống với nhau, lo cho nhau từng đôi tất chân, đôi dép, ngụm nước thuốc uống hàng ngày. Chân thật, hỷ xả, an lạc, gần gũi, gắn bó, nâng cao giá trị sống của tình đạo hữu.

Thubten Choling

Qua 2 lần cưỡi mây bằng máy bay tới Solukhumbu. Khi rời khỏi trực thăng, chúng tôi theo bước chân người thầy xưa ngược lên lối mòn dốc núi, hai bên sườn núi ngợp cây cao bóng tỏa. Ngẩng lên nhìn ánh trưa ken qua vòm cây thơm hương rừng nguyên sinh như thanh lọc thân tâm từng người đang hổn hển lần bước đi lên.

Solukhumbu là một địa danh nằm trong khu vườn quốc gia Sagarmatha một trong 75 huyện thị của Nepal, nằm ở phần phía bắc dãy Everest, dân bản địa là người dân tộc Rai và người Sherpa. Vườn quốc gia Sagarmatha đã được UNESCO công nhậndi sản của thế giới. Tu viện Thubten Choling được dân địa phương và du khách quốc tế coi là một công trình nổi tiếng của Everest.

Từ phòng nghỉ lên Tu viện, chúng tôi lần lượt qua trên 113 bậc thang dài mà không có cảm giác rời rạc khúc đoạn, liền lặc nhau một giải như cung mây nâng bước lên khung trời chánh giác.

Đặt chân lên từng bậc thang được xếp bằng đá, chúng tôi ngạc nhiên có những viên màu nâu, có viên vàng như rỉ sắt, đỏ như bazan, có viên hơi xanh ngọc, như thạch anh, có viên như đá silicat, tất cả đều óng ánh, lấp lánh như bạc. Giống như loại đá magma, chúng tôi lựa viên nhỏ mang về thử đập ra thì thấy có những vụn li ti óng ánh rơi xuống, đó là mica. Có thể xưa kia khi bề mặt trái đất nung chảy đông nguội nhanh đã tạo thành khoáng chất này. Có vài chị đã chọn những cục đá đẹp mang về thuê thợ khắc tượng Phật.

Thubten Cholling hiện lên giữa một trời sương bao phủ, vờn mắt với cảm giác chơi vơi, bay bổng. Những cảm xúc mới mẻ lấp lánh đủ màu sắc trong tâm hồn. Ngày đầu Ngài Kyabje Trulshik Rinpoche đặt chân tới vùng Solukhumbu dựng lên ngôi tịnh thất đơn sơ để có chỗ tu hành, dấu ấn ngày đầu ấy cũng đã qua đi nửa đời người. Có lẽ Ngài cũng không ngờ rằng ngày nay Thubten Choling đã trở thành công trình Phật giáo của thời đại trên Thánh địa.

Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma truyền thống tại Nepal. Vẻ đẹp kiến trúc của Tu viện như một đóa sen mọc lên giữa một vùng môi trường với thảm thực vật bạt ngàn thông xanh và cây rừng nguyên sinh. Một công trình văn hóa Phật giáo mang phong cách nghệ thuật kiến trúc Tây Tạng đã thu hút biết bao lượt tu sĩ Phật giáoPhật tử trên thế giới, các đoàn du khách đủ các quốc tịch, màu da, tôn giáo đến Tu viện tham quan, thiền và làm từ thiện.

Trong giờ phút xả thiền, lữ khách có thể đưa mắt ngắm nhìn thật kỹ từng họa tiết hoa văn trên các xà ngang, xà gồ, vì kèo, vòm trần trong nội thất. Những đường hoa văn không phải là hư cấu mà dựa trên những hình tượng thực tế của thiên nhiên, qua những bàn tay nghệ nhân đã ước lệ hình tượng bông sen, hoa Mandala, giải mây ngũ sắc có tính hình học, nối tiếp nhau như một mối liên kết đan quện bền chặt.

Đối diện Thánh điện là tượng Đức Thích Ca và các Chư Phật. Quanh các bức tường là những bức Thangka. Một loại hình hội họa vẽ về trời, Phật, Bồ tát, Thần, Thánh, là những vị nắm giữ vai trò quan trọng trong Phật giáo. Qua những bức tranh Thangka có thể hiểu phần nào về lịch sử Mật giáo Tây Tạng từ thời cổ xưa lưu truyền đến ngày nay. Thông qua hình thức nghệ thuật tôn giáo mang tính nghi thức đa đạng ấy, mỗi bức Thangka mô tả từng chi tiết: Sắc diện, tay, chân, mắt, mũi, các trì vật, bửu bối toát lên những công năng khác nhau để giúp cho người tu hànhhành giả thiền quán. Một hình thức hướng dẫn qua sự thấy để quán mình hóa thân với vị Phật đối tượng mà nhập vào Phật tánh khi thực hành bất cứ nghi quỹ nào.

Thubten Choling đang là một Tu viện non trẻ nhưng chứa đựng bên trong những tinh thần Phật giáo được tạo lên từ cái nôi Phật giáolịch sử hàng ngàn năm của Phật giáo Tây Tạng, rất có thể sau này Thubten Choling sẽ trở thành công trình di sản của Phật giáo.

Vị Tăng trẻ

 Đó là thầy Trí Không – 36 tuổi, nước da trắng như phụ nữ. Sau khi hoàn thành chuyến hành hương về tới Sài Gòn thì da thầy đã chuyển màu nâu già đi như người ngũ tuần. Một chị là Việt kiều Mỹ đi trong đoàn hỏi: “Thầy Trí Không hơn 50 tuổi rồi ấy nhỉ?”. Người viết bài này nghe câu hỏi vậy mà phì cười, nhưng cảm động lắm. Vì thầy Trí Không thương Phật tử vất vả lần đầu đi xa luôn lo lắng làm sao mọi người phải an toàn sức khỏe. Lên tới Tu viện không nghỉ ngơi chỉ lo làm Phật sự. Trình diện các vị Rinpoche thỉnh cầu các Ngài giảng Pháp, ban truyền Quán đảnh những Pháp tu mới, chuẩn bị các thời khóa cho các Phật tử tu học, lo đủ thứ dẫn đoàn leo lên núi thăm viếng Thánh tích v.v… Tất cả những phần việc ấy chẳng thấm tháp gì với sức trẻ của thầy, nhưng thầy đi lại nhiều ngoài nắng ở độ cao gần 4.000 mét là trực tiếp chịu sự đốt cháy da của tia cực tím, mà những người da trắng hấp thụ rất mạnh tia cực tím nên nước da trắng trẻo của thầy nhanh chóng đổi màu và ngẫu nhiên tăng thâm niên cuộc đời thầy thành ngoài 50 tuổi.

Được hành hương cùng thầy sẽ thực sự yên tâm, chẳng thế mà ông Cảnh ở Quận 12 – TP Hồ Chí Minh chẳng biết thầy là ai, mới chỉ biết thầy trước chuyến đi cách có mấy giờ đồng hồ đã quyết định khăn gói, ba lô theo chân thầy nhập cùng đoàn sang đất Thánh. Thầy Trí Không không những có khả năng đối thoại tiếng Phạn, tiếng Anh, tiếng Hoa, nhờ đó mà thầy đã lật từng trang Thánh tích ở thủ đô Katmandu nói riêng và Nepal nói chung bằng cách dẫn dắt đoàn Phật tử đến tận nơi để mọi người bước dần vào kho tàng lịch sử Phật giáo ở Nepal để được mở mang thêm trí tuệ.

Trên 30 tuổi, nhưng thầy dành hết 2/3 thời gian với bước chân nghèo vượt qua những gian nan thử thách để xuất ngoại trên các quốc gia thuộc về đất Phật, không ngừng dày công học hỏi nên đã tiếp nhận nền giáo dục văn hóa Mật tông của Phật giáo Đại thừa từ các vị Rinpoche cao cấp ở Tây Tạng, Nepal và Ấn Độ. Mỗi khi trở về Việt Nam thầy Trí Không lại dốc hết tâm sức giảng và hướng dẫn Phật tử thực hành giáo Pháp, một trong những giáo Pháp trí tuệ của Phật giáo Đại thừa nhằm góp phần đưa hành giả tiến đến tinh thần vô ngã.

 Vì theo thầy, giáo Pháp không được áp dụng vào đời thì không còn là giáo Pháp. Cứ như vậy, thầy độ cho từng người, rồi đến từng nhóm, rồi thành một đạo tràng, đến nay đạo tràng vẫn sinh hoạt đều đặn 2 kỳ trong 1 tháng. Kể cả những lần thầy Trí Không nhập thất 1 tháng có khi 3 tháng, vắng thầy đạo tràng vẫn sinh hoạt đều đặn theo như thầy đã hướng dẫn trước đó.

Sau mỗi thời thực hành nghi quỹ, thầy lại giảng Pháp để cho những Phật tử đã theo học thầy nhiều năm hoặc những người mới tu học đều hiểu sâu ý nghĩa của Từ biNhân, trí tuệquả. Từ người cao tuổi đến tuổi vị thành niên trong đạo tràng, thầy luôn coi tất cả như cha, mẹ, anh, em của mình, bất kể người đó làm nghề gì, hoàn cảnh giàu nghèo đều không phân biệt. Thấy ai nghèo khổ, đau, yếu thì thầy chạnh lòng.

Tháng 5/2012, trong chuyến thầy Trí Không ra Hà Nội để giảng Pháp theo lời mời của thầy trụ trì một chùa ở Bắc Ninh thì được một Phật tử ở Gia Lâm tên Nguyễn Thị Cẩm, 40 tuổi, đã trên 20 năm sống bằng nghề xem bói và hầu đồng bóng. Nơi ở của chị có hẳn một phòng riêng thờ trên 10 bức tượng Cô mẫu, Thánh, Thần tương đối lớn. Nhưng cuộc sống của chị càng ngày càng gặp nhiều chướng ngại, chị cho rằng bị ma quỷ quậy phá. Chị Nguyễn Thị Cẩm đã tìm đến cầu thỉnh thầy Trí Không đến nhà xem vì sao và làm thế nào để chị bớt gặp chướng ngại được sống bình yên. Thầy Trí Không đã đi taxi cùng 2 Phật tử trẻ đi từ quận Hai Bà qua cầu Chương Dương đến phố Thạch Bàn quận Gia Lâm để thăm nhà Phật tử Nguyễn Thị Cẩm. Sau khi thầy gia trì cho chị và gia đình xong ra về, chị Nguyễn Thị Cẩm cúng dường thầy để bù vào tiền taxi nhưng thầy đã dứt khoát không nhận. Nhờ ánh sáng Phật do thầy Trí Không soi rọi, ngay hôm đó, tâm của chị Cẩm đã mở ra nhất tâm theo Phật. Chị đã gởi hết trên 10 bức tượng Mẫu, Thánh, Thần vào chùa, chỉ giữ lại cho mình xâu chuỗi hạt. Rất nhiều người điện thoại xin chị xem bói và cúng giải hạn, chị đều từ chối và đổi số điện thoại khác. Đến nay, chị Cẩm vẫn tụng kinh niệm Phật hàng ngày và mở một quán tạp hóa làm kế sinh nhai, bỏ hẳn nghề cũ.

Sau những lần hành hương từ Nepal trở về, nhờ có thầy Trí Không luôn hướng dẫn tu họcPhật tử mỗi lần đến đạo tràng như cảm thấy đang tu trì trong Tu viện.

 Do vậy, từ Việt Nam sang Sokhulumbu phải qua hàng ngàn dặm, nhưng khi trở về cố hương thì luôn thấy Thubten Cholling không xa. Mọi người vẫn tu theo Phật – Phật vẫn hàng ngày ở trong trái tim, trong trí não của từng người.

thubtencholing-01

thubtencholing-02

thubtencholing-03

thubtencholing-04

thubtencholing-05

thubtencholing-06

thubtencholing-08

Cụm Bảo Tháp Swayambu

thubtencholing-09

NSƯT Minh Đức với ngài Tulku Pema Wangyal Rinpoche

thubtencholing-10

Teen với nữ Tu sĩ


Đọc thêm: Solukhumbu du ký

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22111)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27547)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37918)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20704)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14540)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19591)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14473)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20954)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28678)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27234)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21950)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21488)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26224)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21631)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23407)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23202)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19838)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22932)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21166)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19965)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15416)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26068)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22556)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22885)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30495)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33232)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35568)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27079)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17744)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24380)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14646)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant