Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đi Tìm Bản Ngã

05 Tháng Mười Hai 202120:17(Xem: 2644)
Đi Tìm Bản Ngã
ĐI TÌM BẢN NGÃ

Geshe Ngawang Dhargyey
Thanh Danh


chu tieu 4

Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi. Khi đó, ngài đến Tu viện Sera ở Lhasa. Ngài rời khỏi Tây Tạng năm 1959 và đến năm 1971 được bổ nhiệm làm người truyền Pháp chính tại Thư viện lưu trữ các tác phẩm Tây Tạng. Ngài ở đó cho đến khi sang New Zealand vào năm 1985 và qua đời 10 năm sau đó. Ngài giảng những lời này ở Trung tâm thiền đại thừa Tushita, New Delhi ngày 2 tháng 1 năm 1980. Robert Thurman đã biên tập lại và xuất bản lần đầu trong quyển Những lời dạy ở Tushita vào năm 1981. 

---

Tất cả chúng ta đều lo buồn; rất nhiều chúng sinh hữu tình thường xuyên khốn khổ. Tuy nhiên, ngay tại đây và bây giờ, chúng tathời gian, không giannăng lực để suy nghĩ cách từ bỏ khổ đau – không phải chỉ là vượt qua một vấn đề hoặc trở nên yên bình hơn, mà là hoàn toàn chấm dứt khổ đau. 

Con người chúng ta có rất nhiều phương pháp tìm kiếm hạnh phúc cho mình nhưng ngay cả khi sống trong một căn nhà đầy đủ mọi thứ chúng ta vẫn cảm thấy không thỏa mãn. Đó là bởi vì chỉ có một thứ duy nhất có khả năng xóa bỏ sự bất thỏa mãn và mang lại hạnh phúc thực sự: đó chính là thực hành Pháp

Nếu chúng ta kiểm lại bên trong chính mình, chúng ta sẽ khám phá ra rằng tất cả bất hạnh của chúng ta đến từ bám luyến hoặc sân hận. Những thứ này thì lại đến từ cái thấy không đúng về bản ngã. Ngay tại giây phút này, chúng ta vẫn coi “Tôi” là một điều rất thật. Trong Nhập Trung Đạo, Chandrakirti phát biểu rằng tất cả khổ đau cảm xúc khởi sinh từ vô minh – hiểu sai về bản tánh của ngã. Đây chính là cội rễ. Để từ bỏ mọi cành nhánh của khổ đau và ngăn ngừa chúng quay trở lại thì chúng ta cần chặt bỏ từ gốc rễ. Bằng cách đó chúng ta chấm dứt khổ đau ngay cả sanh, bệnh, già và chết. 

Những giáo lý chính của đức Phật để xóa bỏ vô minh bằng cách hiểu rõquán chiếu trí huệ tánh Không được ghi lại trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamita), và những đoạn văn này là nguồn biên soạn chính của ngài Long Thọ trong tác phẩm Sáu Mươi Kệ Tụng Biện Luận Lý Tính Duyên Khởi, đặc biệtLuận Trung Quán (Mulamadhyamakakarika). Những lời dạy khác về trí huệ quán chiếu tánh Không có thể tìm thấy trong tác phẩm Bốn trăm bài tụng của ngài Thánh Thiên (Aryadeva); tác phẩm Luận về Trung quán của ngài Phật Hộ (Buddhapalita); tác phẩm Minh Cú Luận của ngài Nguyệt Xứng (Chandrakirti) và chương thứ chín trong tác phẩm Con Đường Bồ Tát Hạnh của ngài Tịch Thiên

Điểm cốt tủy của tất cả các kỹ thuật được miêu tả trong các bản văn trên và các ghi chú khác nhằm phát triển một hiểu biết về tánh Không của tự ngã là một phương pháp được gọi là “Bốn điểm cốt yếu” hay “Bốn chiếc chiếc chìa khóa”. Những điểm này cung cấp một cách tiếp cận rất hiệu quả đến tánh Không. Chúng ta bắt đầu bằng cách áp dụng bốn phương pháp phân tích này để đạt được hiểu biết về vô tự tánh của con người (vô ngã) và sau đó dùng chúng để đạt được hiểu biết về vô tự tánh của hiện tượng (vô pháp). 

ĐIỂM CỐT YẾU ĐẦU TIÊN 

Chiếc chìa khóa đầu tiên là “xác quyết đối tượng cần được tiêu trừ”. Chúng ta không thể quán chiếu tánh Không mà đầu tiên còn không biết cái gì là rỗng không. Tánh Không không phải chỉ là hư vô mơ hồ. Điểm đầu tiên này giúp chúng ta hiểu cách bản ngã giả tạm – đối tượng cần bác bỏtiêu trừ - tồn tại. Chúng ta cần nhận ra cách mà chúng ta xem cái “Tôi” là một tồn tại riêng rẽ, như thể nó độc lập khỏi tổng hòa thân và tâm này. Cái “Tôi” xuất hiện như kiểu đã được hình thành đầy đủ, tự tồn tại và kiểu tồn tại này thì không có vẻ bị tác động bởi những phóng chiếu của tâm. 

Cách mà chúng ta níu giữ và tin rằng cái “Tôi” tồn tại trở nên đặc biệt rõ ràng khi chúng ta giận dữ hoặc sợ hãi. Vào những lúc đó, chúng ta nên phân tích cách mà bản ngã xuất hiện trong tâm cũng như cách mà tâm diễn giải nó. Chúng ta có thể khơi gợi những cảm xúc này trong khi thiền định và trong lúc duy trì chúng, sử dụng một phần tinh tế của thức của mình để nhận ra cách chúng ta tiếp tưởng về cái “Tôi”. 

Để bắt được kẻ trộm, trước tiên chúng ta phải biết hắn là ai và hắn trông như thế nào. Kẻ trộm lớn nhất chính là tri kiến sai lầm về bản ngã – khái niệm cho rằng ko chỉ bản thân ta mà tất cả sự vật hiện tượng đều thật sự tồn tại. Chúng ta tin rằng sự vật hiện tượng thật sự tồn tại theo cách mà chúng xuất hiện đến các giác quan của chúng ta, cũng như chúng cũng tự tồn tại hết sức khách quan. Điều này, khi đó chính là điều chúng ta cần biết để tóm được kẻ đã trộm mất hạnh phúcan lạc của mình. 

Nếu chúng ta không nhận ra được khái niệm sai trái này mà vẫn đi vòng quanh và hô to “tánh Không, tánh Không” chúng ta sẽ dễ rơi vào một trong hai thái cực của đoạn kiến hoặc  thường kiến – tin rằng hoặc mọi thứ tự tồn tại hoặc chẳng có gì tồn tại cả, do vậy tiếp tục phóng đại hoặc chối bỏ hiện thực vốn có. 

Do đó, chúng ta phải nhận ra bản ngã giả tạm này chính là đối tượng cần bác bỏ trước khi thực hành bác bỏ và loại trừ nó. Đây là bước khởi đầu trong việc phát triển hiểu biết về tánh Không và nền tảng để quán chiếu tánh Không. Đầu tiên chúng ta phải tìm kiếm bản ngã giả tạm chứ không phải không có bản ngã. Điều này đòi hỏi phải thực hành thật tinh tấn

Để việc thực hành tánh Không được được hiệu quả, chúng ta trước hết cần chuẩn bị tâm bằng cách tịnh hoá uế trược (tiêu cực) và tích tập công đức. Cốt tủy của tịnh hoá và hình thành công đức là thực hành bảy điểm bao gồm: lễ lạy , cúng dường, sám hối, tùy hỉ, thỉnh cầuhồi hướng. Chúng ta cũng có thể thực hành những nghi quỹ ban đầu như cúng dường mười vạn mạn đà la, trì chú Kim cương tát đỏa…

Khi chúng ta bắt đầu quán sát được bản ngã giả tạm – bản ngãchúng ta theo thói quen cho rằng tồn tại trong mỗi con người, mỗi sự vật hiện tượng, biểu lộ, chúng ta sẽ thật nhanh chóng nhận ra rằng nó chẳng hề tồn tại. Trước khi gặt hái được nhận thức này, cái “Tôi” trông rất thật, rất cụ thể. Nhưng ngay khi chúng ta bắt đầu kiểm tra thì lại chẳng thấy nó đâu cả. Nó biến mất. Nếu cái “Tôi” thật sự tồn tại thì càng tìm kiếm chúng ta càng phải thấy nó rõ hơn chứ? … Hoặc ít ra phải thấy được nó. Nếu không thể tìm thấy thì làm sao nó tồn tại được? 

ĐIỂM CỐT YẾU THỨ HAI 

Cái “Tôi” hoặc là tồn tại đồng nhất cùng với thân và tâm hoặc tự tồn tại một cách độc lập. Không có một cách thứ ba nào khác để nó có thể tồn tại. Đây là chiếc chìa khóa thứ hai, xác quyết sự tồn tại luận lý của hai khả năng, hoặc là tồn tại cùng với thân tâm hoặc là độc lập

Chúng ta hãy xem xét cái “Tôi” độc lập – cái tự nó hình thành mà không phải được tạo ra bởi tâm. Nếu ngã không tồn tại như cách nó xuất hiện thì chúng ta không tin vào nó. Chúng ta có lẽ nghĩ rằng nó đang ở một chỗ nào đó khác – rằng nó sẽ xuất hiện khi chúng ta gặp đạo sư của mình hay nó vẫn đang trôi nổi đâu đó ngoài cửa sổ kia. Nhưng chúng ta cần hiểu rằng không có một cách thứ ba nào cả. Do đó, chúng ta nên thực hành điều cốt tủy thứ hai với nhận thức rằng cái “Tôi” hiển hiện này nếu không đồng nhất hoặc cũng không tách rời khỏi năm uẩn của thân tâm thì không có cách gì nó có tồn tại cả. Tại điểm này, mọi thứ sẽ trở nên dễ dàng hơn cho chúng ta khi muốn hiểu về đặc tính tổng quát của tánh Không

ĐIỂM CỐT YẾU THỨ BA 

Chìa khóa thứ ba là xác quyết sự vắng mặt của sự đồng nhất giữa cái “Tôi” và năm uẩn. Một khi chúng ta đã xác quyết mục tiêu của sự bác bỏ bằng cách thiền định về tánh Không và đã thấy được rằng cái “Tôi” không thể tồn tại độc lập khỏi năm uẩn cũng như không thể là một với năm uẩn, chúng ta tiếp theo tập trung xem xét nếu nó tồn tại với một trong năm uẩn này. 

Nếu “Tôi” là một trong năm uẩn thì bởi vì có năm uẩn, phải có năm trạng thái liên tục của cái “Tôi. Còn nếu chỉ có một cái “Tôi” thì năm uẩn không thể là năm mà chỉ một, không thể chia cắt. Chúng ta do vậy, nên xem xét từng uẩn coi nó có phải chính là tự ngã hay không. Chúng ta hỏi: “Có phải tôi và thân tôi là một?”, “Có phải tôi và cảm giác của tôi là một?”, “Có phải tôi và nhận thức phân biệt của tôi là một?” và tiếp tục đặt ra những câu hỏi tương tự như vậy. 

Có nhiều quy trình phân tích khác nhau cho thấy khái niệm bản ngã đồng nhất với một trong các uẩn là không đúng. Tôi sẽ nói ngắn gọn về chúng một chút. Ví dụ, nếu bản ngã là một thực thể thường hằng, tự tồn tại, thì phá hủy nó là điều không thể. Tiếp đến, nếu cái “Tôi” tồn tại trong cùng cơ thể này thì cơ thể này sẽ không chết, giả sử có chết thì xác cũng không bị thiêu cháy vì cái tôi cũng sẽ bị phá hủy theo. Việc này thật vô lý đúng không. 

Cũng như vậy, thân và tâm lý ra sẽ không thay đổi bởi vì đó là bản tánh của ngã trường tồn. Xa hơn thế, nếu cái “Tôi” tồn tại không phân biệt với thân và tâm vậy thì sẽ chỉ có một thực thể tồn tại không phân biệt. Lúc đó, cái tồn tại riêng rẽ “thân tôi”, “tâm tôi” sẽ không còn đúng nữa. 

Do đó, có nhiều cách để làm rõ và và thiền định để đi đến kết luận rằng sự thực và cách mà chúng ta nhận thức sự vật hiện tượnghoàn toàn khác nhau. Chúng ta không phải là những thực thể cố định và bất biến

ĐIỂM CỐT YẾU THỨ TƯ 

Sau khi đã xác quyết như trên, rằng bản ngãnăm uẩn không phải là một, chúng ta hãy xem xét nếu bản ngã khác và không liên quan gì đến năm uẩn này. Đây là chiếc chìa khóa thứ tư, xác quyết sự vắng mặt của sự khác nhau giữa bản ngãnăm uẩn

Ví dụ nếu bạn có một con cừu, một con dê và một con trâu thì bạn có thể thấy được con trâu nếu bỏ đi con cừu và con dê. Tương tự như vậy, nếu cái “Tôi” tồn tại độc lập khỏi thân và tâm, khi chúng ta loại bỏ thân và tâm, chúng ta sẽ còn lại một thực thể thứ ba gọi là “Tôi”. Nhưng khi chúng ta khởi sự tìm kiếm bên ngoài thân, ngoài cảm giác, ngoài ý thức thì lại chẳng thấy cái “Tôi” nào cả. Hàng thế hệ các hành giả du già đã tìm kiếm và thấy rằng chẳng thấy gì cả ngoài năm uẩn

Một lần nữa, có nhiều cách để làm rõ khi quán chiếu về các khả năng mà bản ngã tách rời khỏi năm uẩn. Nếu chúng thật sự khác nhau thì sẽ không có liên hệ nào giữa chúng. Ví dụ khi chúng ta nói “Đầu của tôi đau”, từ “của tôi” chiếu đến một cái gì khác chứ ko phải “đầu” (sắc) và “đau” (thọ); nó là một cái gì đó nằm ở chỗ khác. Chính uẩn gây đau, không phải tôi. Nếu bản ngã là một cái gì đó khác, khác hẳn với uẩn thì thật ngớ ngẩn khi nói rằng “Đầu tôi đau”, “Tay tôi đau”… mặc dù cơn đau bằng cách nào đó cũng tác động đến bản ngã

Bằng nhiều cách phân tích khác nhau, chúng ta thu hoạch được một điều chắc chắnbản ngãnăm uẩn không thật sự khác biệt. 

THIỀN TẬP VỀ TÁNH KHÔNG 

Vì bốn chiếc chìa khóa chứa đựng những điểm cốt yếu trong kiến giải của ngài Long Thọ về Trung Đạo, chúng giúp cho thiền định về tánh Không có phần dễ dàng hơn. 

Nếu chúng ta thiền định với bốn chiếc chìa khóa nhằm tìm kiếm bản ngã trong thân này thì từ đầu đến chân và cả trong các uẩn của tâm chúng ta đều sẽ không tìm thấy gì cả. Khi đó, chúng ta ngộ ra được một điều là cái tôi cứng chắc, không lay chuyển chẳng hề tồn tại. Điều này trông giống như tìm kiếm một con bò trên cánh đồng, chúng ta tìm trên đồi, dưới thung lũng, xuyên qua đám cây, mọi nơi có thể. Sau khi tìm kiếm toàn bộ khu vực mà không thấy gì, chúng ta đi đến kết luận rằng con bò không có ở đó. Tương tự như vậy, chúng ta cũng không tìm thấy một cái tôi có tự tánh khi tìm kiếm trong các uẩn của thân tâm. Đây chính là hiểu biết về tánh Không

Chúng ta khi đó tập trung vào chỉ một điểm duy nhất là sự vắng mặt của bản ngãchúng ta vẫn luôn cho rằng có tồn tại. Mỗi khi sự chắc chắn này yếu hoặc mờ đi, chúng ta lại quay về với thiền phân tích bằng bốn chiếc chìa khóa như đã nói. Khi sự sắc bén quay trở lại chúng ta tập trung vào một điểm duy nhất này. Bằng cách này, chúng ta gặt hái được hai thứ: chắc chắn rằng không có cái tôi nào ngoài kia và kinh nghiệm khách quan làm cách nào nhận thức này đã xuất hiện. Bằng cách giữ hai điều này cùng với nhau và không cho phép tâm đi lang thang, chúng ta sẽ đạt được sự tập trung duy nhất vào một điểm hấp thu cân bằng không gian. Nơi mọi thứ xuất hiện không hai, như nước rót vào nước vậy. 

Chúng ta cũng cần phải học cần phải làm gì khi ra khỏi thiền định – trong giai đoạn hậu thiền định phải thấy mọi thứ như huyễn. Mặc dù mọi thứ xuất hiện như thể nó có tự tánh, nó cũng chỉ là một biểu hiện của tánh Không mà thôi, như các trò ảo thuật vậy. Trạng thái này gọi là định của những huyễn hiện.

Việc thực hành của chúng ta bằng cách này, luân chuyển giữa định hoà tan như không gian và định của huyễn hiện, sẽ giúp chúng ta tránh rơi vào các cực của thường kiếnđoạn kiến. Điều này sẽ kích hoạt một nhân tố kích thích thần kinh (ectasy) và giúp chúng ta kinh nghiệm trạng thái rất thư giãn của tinh thầnthể chất. Việc thiền định lúc này tự nó cất cánh mà không cần nhiều nỗ lực. Một khi chất ectasy này được kích hoạt, năng lực thiền định sẽ tăng lên hàng trăm lần giúp chúng ta xuyên thấu tới trí huệ tánh Không

Chúng ta nên dành nhiều thời gian hơn cho việc thiền định về bốn chiếc chìa khóa này. Sẽ có nhiều khó khăn nhưng đây là cách thiền định mạnh mẽ nhất và lợi lạc nhất để đối phó với mê lầm. Như ngài Thánh Thiên từng nói: “Ngay cả nghi ngờ về căn cứ của tánh Không cũng có thể xé toạc sinh tử luân hồi”. 

Thiền định về tánh Không cũng là cách mạnh mẽ nhất để thanh tịnh nghiệp xấu. Trong thời của đức Thích Ca Mâu Ni, có một vị vua đã giết chính cha mình. Nhưng ông ấy quá sợ hãi về việc mình sẽ bị đày xuống địa ngục nên đã cầu xin đức Phật lời khuyên. Đức Phật dạy nhà vua thiền định về tánh Không. Nhà vua đã toàn tâm thực hành theo phương pháp này và về sau thanh tịnh được nghiệp xấu trong dòng tâm thức của mình. 

Sau khi đức Tsong Khapa - Tông Khách Ba thành tựu giác ngộ, ngài đã viết bài thơ “Xưng Tán Duyên Khởi” trong đó ngài nói rằng mặc dù tất cả lời dạy của đức Phậtlợi lạcsáng suốt nhưng cái lợi lạcsáng suốt nhất chính là lời dạy về tánh Không bởi vì chính nhờ thiền định về tánh Khôngchúng sinh hữu tình có thể cắt đứt cội rễ của sinh tử luân hồiđạt được giải thoát khỏi khổ đau. Trong sự kinh ngạchân hoan, đức Tsong Khapa xưng tán nhận thức siêu việttrí huệ đáng tin cậy của đức Phật như là một triết gia và cũng là một nhà khoa học. 

Khi chúng ta hiểu rằng đức Phật đã thật sự thấu suốt và mô tả bản tánh của hiện tại bằng các lời dạy của ngài về tánh Không, một niềm tin vững chắc sinh khởi bên trong chúng ta. Niềm tin này không phải dựa trên những câu chuyện hay tưởng tượng mà chính dựa vào kinh nghiệm mà mỗi chúng ta đã có thông qua thực hànhquán chiếu. Chúng ta thấy được hiện tại hiện hữu một cách chính xác như đức Phật đã mô tả. Hơn thế nữa, ngài đã tìm ra điều này lâu, rất lâu trước khi có các phương tiện khoa học kỹ thuật như ngày nay. 

Trích từ “NHỮNG GIÁO LÝ TỪ TÂY TẠNG - Hướng dẫn của những Lạt Ma vĩ đại”

Nicholas Ribush biên tập bản tiếng Anh. NXB. Lama Yeshe Wisdom Archive, 2005.

Thanh Danh dịch sang tiếng Việt, 2021.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3947)
không phải là kết thúc của cuộc sống, bởi vẫn còn tái sinh sau khi chết.
(Xem: 3444)
Đừng bao giờ lo âu hay sợ hãi về cái chết. Thay vào đó, hãy cố gắng cải thiện tâm trạng và trưởng dưỡng một nhận thức hoan hỷ rõ ràng
(Xem: 4243)
Sống và chết đều vô cùng quan trọng với mọi người bởi chúng là số phận. Không ai có thể từ chối hay tránh khổ đau liên quan đến sinh, lão, bệnh, tử và cuộc sống thực sự.
(Xem: 4309)
Vài người nghĩ rằng Phật giáo Kim Cương thừa rất huyền bí. Điều này là bởi họ thiếu một sự hiểu về hệ thống tư tưởngthực hành của Kim Cương thừa.
(Xem: 2888)
Các hiện thân của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tạivị lai; những thủ lĩnh phổ quát của đại dương đàn trànggia đình Phật;
(Xem: 3315)
Tất cả hữu tình chúng sinh trong tam giới của sự tồn tại đều trong tù ngục luân hồichúng ta đều trải qua khổ đau của luân hồi.
(Xem: 3412)
Về điều mà chúng ta sắp lắng nghe, Đức Phật đã ban vô số giáo lý. Nếu chúng ta muốn cô đọng những giáo lý này thì có những giáo lý của thừa căn bản và những giáo lý của thừa đặc biệt.
(Xem: 3325)
Trì Minh Vương hay Vidyadhara tối thắng Rigdzin Jigme Lingpa (1729-98) sinh ở Yoru, Tây Tạng trong một vùng vô cùng khiêm nhường.
(Xem: 3467)
Đèn Soi Nẻo Giác (A Lamp for the Path to Enlightenment), do ngài Atisha vĩ đại (Dipamkara Shrijnana) sáng tác tại Tây Tạng.
(Xem: 4437)
Ngày nọ, Đạo Sư đang an trụ trong sự chứng ngộ khi Ngài diện kiến Đức Kim Cương Tát Đỏa và thọ nhận lời tiên tri:
(Xem: 3473)
Ở Xứ Tuyết Tây Tạng, những giáo lý của Đức Phật được trao truyền trong nhiều dòng truyền thừa.
(Xem: 9733)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 7106)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 7976)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 9519)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 4538)
Kính lễ Đấng Trang Nghiêm Kim Cang Tát Đỏa. “Tất cả mọi pháp đều không có tự tánh. (Năm) uẩn (skandas), (mười tám) giới (dhatus)...
(Xem: 5236)
Kinh Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân nói rằng, theo giáo lý của Đức Phật, có hai kiểu người không làm ác: kiểu đầu tiên là những người...
(Xem: 13579)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 11377)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11679)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10993)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 9416)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 13906)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 15142)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10606)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10752)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9984)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10079)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10275)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10620)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10700)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10619)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10187)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9897)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13640)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16440)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13581)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 9670)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 10639)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 12461)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11985)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10836)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13431)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10089)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 12362)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 11854)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 12110)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14546)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 11053)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 15533)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17892)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15179)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16667)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 14756)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 14652)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18455)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 18641)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 12940)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13537)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 18699)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant