Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

A Dục Vương, một cư sĩ Phật tử hộ trì chánh pháp vĩ đại

21 Tháng Chín 201000:00(Xem: 8420)
A Dục Vương, một cư sĩ Phật tử hộ trì chánh pháp vĩ đại

ASOKA hay A DỤC VƯƠNG (273-233 trước Tây Lịch) là một vị vua, nhân vật lịch sửđại không những đối với lịch sử Ấn Ðộ mà cả lịch sử thế giới. Ngài còn là một cư sĩ Phật tử “Hộ Pháp” có công đức nhiều với nhân loại trong việc phát huy, bảo vệ chánh pháp của đức Phật.

A Dục Ðại Ðế là cháu nội vua Chandragupta (trị vì: 322-298 trước T.L), người sáng lập nên triều đại Maurya (322-184 trước T.L) ở Ấn Ðộ. A Dục là con vua Bindusara và hoàng hậu Subhadrangi, trị vì vương quốc Magadha (Ma Kiệt Ðà) vào những năm 298-273 trước T.L), với kinh đô đóng tại Pataliputra (Hoa Thị Thành), nay là thủ phủ Patna, thuộc tiểu bang Bihar, miền đông Ấn Ðộ. Sử chép rằng Vua Bindusara lấy đến 16 vợ và có 101 người con, trong đó Sumana là con đầu, Asoka (A Dục) thứ hai và Tishya là con út. Vua A Dục lên ngôi lúc ngài 30 tuổi và mất vào năm 71 tuổi (273-233 trước T.L). Nhà vua có năm vợ và sáu con: bốn trai, hai gái.

Sử chép rằng sau khi nghe tin vua cha băng hà, A Dục bấy giờ đang cai trị tiểu quốc Avanti (miền bắc Ấn Ðộ), cấp tốc kéo quân về vây hảm kinh đô Pataliputra, giết hết 99 người anh của mình, trong đó có thái tử Sumana là người mà vua cha Bindusara định truyền ngôi cho. Từ đó, A Dục Vương nổi danh như một hung thần bạo chúa, cai trị muôn dân bằng sắt máu. Ông dùng vũ lực xua quân đi xâm lăng các tiểu quốc lân bang để mở mang bờ cõi. Quân nhà vua đi tới đâu, cảnh lương dân bị chém giết, đẩy ải, nhà cửa bị đốt phá xảy ra đến đó. Khắp nơi dân tình khốn khổ vì nạn nghèo đói, bệnh tật, tù đầy, gây nên bởi những cuộc viễn chinh tàn bạo của A DụcVương. Do đó, nhà vua được người đời bấy giờ tặng cho cái tên Candasoka (A Dục Vương hung ác).

Rồi một hôm, đang ngồi một mình trên lầu trong cung điện, vua A Dục chợt nhìn qua khung cửa sổ, bắt gặp hình dáng một chú tiểu Sa Di tên Nigrodha trong chiếc áo cà sa vàng, với dáng điệu khoan thai đang đi khất thực dưới đường. Nhà vua bèn cho mời chú tiểu vào để thăm hỏi và vấn đạo. Sa Di Nigrodha sau đó đã thuyết giảng cho A Dục Vương nghe một đoạn kinh Pháp cú (Dhammapada) như sau: “Không phóng dật đưa tới bất tử; Phóng dật đưa tới đường tử sanh. Người không phóng dật thì không chết; Kẻ phóng dật thì sống như thây ma”. Nghe xong nhà vua liền thức tỉnh, phát tâm hồi đầu theo Phật. Từ đó, A Dục Vương bắt đầu thay đổi cuộc sống và quan niệm nhân sinh của mình. Nhà vua nghĩ đến sự chiến thắng, chinh phục nhân tâm bằng chánh pháp của đức Phật chứ không phải bằng những cuộc chiến tranh tàn bạo. Mặc dù vua A Dục đã theo Phật Giáo sau những ngày gặp Sa Di Nigrodha, nhà vua vẫn chưa diệt hẳn tham vọng bành trướng đất đai mãi đến sau trận chiến Kalinga (nay thuộc tiểu bang Orissa, miền đông Ấn Ðộ), với 100.000 người chết, và 150.000 người bị đày ải, vua A Dục mới thực sự ăn năn sám hối tội ác, gây nên bao thống khổ điêu linh cho muôn dântừ bỏ hẳn con đường chinh phục thiên hạ bằng chiến tranh.

Từ ngày đó, vua A Dục nhất tâm quy y, phụng trì Tam Bảo, ngày đêm sám hối những tội lỗi mình đã gây ra và phát nguyện đem hết năng lực còn lại của đời mình để phụng sự Phật Giáonhân loại. Về xã hội, nhằm gây hạnh phúc cho nhân dân, nhà vua ra lệnh sửa sang đường sá, cầu cống; dọc đường trồng cây có bóng mát, xây dựng quán nghỉ ngơi, giếng nước, trạm phát thuốc cho người bệnh, người già, kẻ lỡ đường v..v….Về y tế, nhà vua cho thiết lập khắp nơi trong nước nhiều bệnh viện, không những để chăm sóc, chữa bệnh cho con người, mà cả đến loài vật.

Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ, truyền bá chánh pháp của đức Phật, không những trong nước Ấn Ðộ và các quốc gia khác ở Á Châu, mà lan rộng cả đến Âu và Phi Châu. Vua A Dục muốn biến cải Phật Giáo bấy giờ thành tôn giáo chung của toàn thế giới.

Nhà vua đích thân đi chiêm bái các Thánh Tích Phật Giáo như vườn Lâm Tì Ni (Lumbini), nơi đức Phật đản sinh hơn 2.500 năm trước; Bồ Ðề Ðạo Tràng (Bodh Gaya), nơi đức Phật tọa thiền chứng đạo dưới cội Bồ Ðề, vườn Lộc Uyển (Sarnath), nơi đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên “Tứ Diệu Ðế” v..v….và tới đâu ngài cũng ra lệnh cho dựng các trụ đá để ghi dấu tích và kỷ niệm. Chính nhờ những trụ đá này mà về sau các sử gia nghiên cứu mới biết rõ được những di tích lịch sử liên quan đến đời sốnghoạt động của đức Phật thời xưa ở Ấn Ðộ.

Nhà vua cho xây cất rất nhiều chùa tháp, tu viện Phật Giáo trong nước, và giúp đỡ chư Tăng trong nhiệm vụ đưa giáo lý an lạc của đức Phật vào cuộc đời. Vua A Dục cũng khuyến khích cho hai người con của mình là hoàng tử Mahinda (Ma Hưng Đạt) và công chúa Sanghamitta xuất gia đi tu. Ðại đức Mahinda, người có công lớn trong việc mang Phật Giáo từ Ấn Ðộ sang truyền bá tại Tích Lan vào năm 247 trước Tây Lịch. Còn Ni Cô Sanghamitta, không lâu sau đó, theo lời khuyên của đại đức Mahinda, cũng vượt biển bằng thuyền qua Tích Lan để góp sức với anh mình trong việc phát huy truyền bá Phật Pháp tại đây.

Cùng đi với Sanghamitta, còn có 11 Ni Cô khác nữa. Sử chép rằng trong chuyến đi lịch sử này, sư cô Sanghamitta có mang theo một nhánh Bồ Ðề con chiết lấy từ cây Bồ Ðề chính ở Bồ Ðề Ðạo Tràng (Bodh Gaya), nơi đức Phật Thành Ðạo xưa kia, đem trồng ở Anuradhapura, cựu kinh đô của Tích Lan (Sri Lanka). Cây Bồ Ðề hiện nay vẫn còn sống và theo học giả Phật tử người Anh, ông Christmas Humphreys, đây là cây Bồ Ðề lịch sử cổ nhất thế giới.

Nhưng sự đóng góp vĩ đại nhất của vua A Dục cho nhân loại là những pháp lệnh ngài chỉ thị cho khắc trên đá hoặc trụ đá dựng lên khắp toàn xứ Ấn Ðộ bấy giờ mà qua đó, giáo lý đức Phật được truyền thừa và lưu lại muôn đời cho các hậu thế chúng ta. Chẳng hạn pháp lệnh thứ VI khắc trên trụ đá ở thị trấn Banaras -Ba La Nại (thuộc tiểu bang Uttar Pradesh, miền đông bắc Ấn Ðộ) vào niên đại A Dục thứ 26, nói về cai trị theo chánh pháp: “Ðiều ta muốn nói là ta luôn nghĩ đến quyền lợihạnh phúc của thế giới. Ðối với cha mẹ, bà con quyến thuộc xa gần, ta muốn mang lại hạnh phúc cho họ”, và pháp lệnh thứ IV khắc trên núi đá vùng Girnar (thuộc tiểu bang Gujarat, miền tây Ấn Ðộ) ghi: “Nhờ sự thực hành chánh pháp của quốc vương, bạn của những thần linh, với cái nhìn bằng hữu, tiếng trống trận đã trở thành tiếng báo hiệu cho chánh pháp”, hoặc pháp lệnh thứ II khắc trên trụ đá ở thành Ba La Nại (Banaras) ghi: “…….Ta thành tâm sám hối về mọi lỗi lầm đã qua, và nhận thấy rằng chiến tranh xâm lăng lúc nào cũng gây nên chết chóc và tội ác. Dù số người đã bị giết, bị thương, bị bắt có trăm lần ít hơn số người bị tàn sát trong trận chiến Kalinga đi nữa, thì cũng là điều khiến cho ta ân hận lắm. Dù các tiểu quốc có phạm lỗi lầm gì thì bây giờ ta cũng phải nhẫn nhục đến cùng. Vì ta muốn tất cả mọi người đều có sự an lạc, yên tĩnh trong tâm hồn, và thương yêu với đồng loại”…

Trong khuôn khổ một bài báo, chúng tôi rất tiếc không thể trình bày hết những đóng góp lớn lao của vua A Dục cho con người trên nhiều lãnh vực: chính trị, văn hóa, tôn giáoxã hội v..v…..Dù nhà vua đã mất gần 2.238 năm về trước, nhưng gương sáng của ngài sử sách cổ kim vẫn còn truyền tụng và tên của A Dục Vương vẫn được ghi nhớ mãi trong lòng mọi thế hệ nhân loại và nhất là trong hàng Phật tử hậu sinh chúng ta. Chính không phải do những chiến thắng bằng vũ lực tàn bạo của A Dục đại đế mà là nhờ bởi những việc làm phước thiện của nhà vua đã thực hiện cho muôn dân xã hội Ấn Ðộ bấy giờ, sau khi ngài biết ăn năn sám hối tội lỗi của mình đã gây ra và quay đầu về với chánh pháp của đức Phật.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Asoka, The Buddhist Emperor of India, by Vincent A. Smith, Low Price Publications, Delhi ( India), 1930.

2. 2500 Years of Buddhism, Editor: Prof. P.V. Bapat, Publications Division, Government of India, Delhi, 1964.

3. Encyclopaedia of Buddhism, Vol. II, Edited by Dr. G.P. Malalasekera, Government of Ceylon ( Sri Lanka), Colombo, 1967.

4. Royal Patronage of Buddhism in Ancient India, by Kanai Lal Hazra, D.K.Publications, New Delhi ( India), 1984.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8066)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35708)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19812)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11777)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23296)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13432)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5867)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10672)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10437)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10115)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20958)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6228)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6872)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8926)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6049)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18191)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6397)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6774)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6582)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13090)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5903)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7923)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10256)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7910)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9902)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9111)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6012)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24598)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36505)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7768)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11587)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10082)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5260)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5452)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10050)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7914)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9396)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8687)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46630)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6933)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12419)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5841)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14600)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13089)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12524)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14652)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12529)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10995)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9671)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16761)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8505)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5997)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9990)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6406)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11405)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7090)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46824)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13540)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8446)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6889)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9219)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6213)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6942)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17953)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18280)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15901)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6990)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31334)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9605)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7729)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21703)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34244)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33423)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14277)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35746)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13038)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15803)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13717)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33138)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26511)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41493)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40431)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20117)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33771)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29720)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33762)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18940)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22813)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22546)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49068)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 12004)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11190)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22598)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18050)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15162)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22753)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16025)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13139)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19778)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12092)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant