Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Ba: Tu Học Với Rinpoche

14 Tháng Mười Hai 201612:29(Xem: 2540)
Phần Ba: Tu Học Với Rinpoche

Chân Dung Của Tsenzhab Serkong Rinpoche


Alexander Berzin, 1998

   Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ;
Võ Thư Ngân hiệu đính

Phần Ba: Tu Học Với Rinpoche
Buổi Đầu Gặp Gỡ Với Serkong Rinpoche Và Lời Khuyên Đầu Tiên Của Ngài


Tôi gặp Serkong Rinpoche lần đầu tiên tại Bồ Đề Đạo Tràng vào tháng Giêng, năm 1970. Sharpa Rinpoche và Khamlung Rinpoche, hai vị lama tái sinh trẻ theo học Anh văn ở Mỹ dưới sự hướng dẫn của Geshe Wangyal, đã giới thiệu ngài cho tôi. Serkong Rinpoche có thể giới thiệu một vị thầy thích hợp cho việc tu học pháp Guhyasamaja (tập hội của các yếu tố ẩn mật). Tôi đã chọn hệ thống Mật điển phức tạp này làm đề tài luận án Tiến sĩ, sau khi so sánh các phiên bản tiếng Phạn và Tây Tạng thuộc một phần nhỏ trong bản văn chính bí mật, trong một buổi hội thảo nghiên cứu tốt nghiệp bằng đại học.

Mặc dù kinh nghiệm nghiên cứu ngôn ngữ của tôi hoàn toàn không đủ khả năng để nghiên cứu một pháp tu cao cấp như vậy, Serkong Rinpoche vẫn hết lòng giúp tôi. Ngài đề nghị tôi đến tham vấn với Kenzur Yeshey Dondrub, vị cựu trụ trì của Gyuto, Trường Mật Điển Cao Đẳng Miền Thượng (Upper Tantric College), người mà nhiều năm sau đã trở thành vị lãnh đạo của truyền thống Gelug (Cách-lỗ). Tôi cảm thấy vinh dự là Rinpoche đã chọn cho mình một đạo sư lừng danh như thế.

Tu Học Với Geshe Ngawang Dhargyey Ở Dalhousie

Vài tháng sau, tôi gặp vị cựu trụ trì trong căn chòi nhỏ bé xây bằng bùn và phân bò ở phía trên vùng Dalhousie, ngôi làng miền núi gần Dharamsala, nơi Tu Viện Gyuto tọa lạc, và tôi đã định cư ở đó. Nhà sư già khiêm cung vừa hoàn tất hai kỳ nhập thất liên tục, mỗi kỳ ba năm. Khi tôi xin ngài dạy, vị cựu trụ trì sẵn sàng đồng ý. Ngài nói là tôi đã đến đúng lúc. Ngài sắp sửa bắt đầu một kỳ nhập thất ba năm miên mật về hệ thống Guhyasamaja trong ngày hôm sau. Liệu tôi có dám tham dự kỳ nhập thất với ngài không? Dĩ nhiên tôi phải từ chối, nhưng lại học được một bài học mà Rinpoche ban cho theo cung cách Phật giáo cổ điển. Rinpoche đã tạo ra hoàn cảnh để tôi tự nhận ra sự thật. Nếu muốn tu họchành trì pháp tu Mật điển cao cấp nhất thì tôi phải khởi sự từ đầu.

Sau đó, tôi vội đổi đề tài luận án thành một chủ đề khiêm tốn hơn, đó là truyền thống truyền khẩu lam-rim, trình tự đường tu giác ngộ, và sắp xếp việc tu học giáo pháp căn bản với thầy của Sharpa Rinpoche và Khamlung Rinpoche, Geshe Ngawang Dhargyey. Geshe là học vị Phật học tương đương với bằng Tiến sĩ, và trình độ học giả uyên bác của Geshe Dhargyey đã đưa ngài đến vai trò giáo thọ cho năm vị lama thiếu niên tái sinh. Vào thời điểm đó, Geshe Dhargyey đang sống trong một chuồng bò được sửa thành căn hộ, nhung nhúc đầy ruồi. Nơi này nhỏ đến nỗi chỉ vừa đủ kê một cái giường, và khoảng trống còn lại vừa đủ chỗ cho ba người ngồi chật chội dưới đất. Dù cảm thấy ghê sợ với điều kiện sinh sống của ngài, tôi đã ổn định việc học. Tôi còn phải học cách nói tiếng Tạng hiện đại. Ở Harvard, tôi chỉ nghiên cứu chữ viết Tạng ngữ cổ điển.

Lần kế tiếp tôi gặp Serkong Rinpoche là vào tháng 6 năm đó. Một trận dịch tả và thương hàn khủng khiếp đã lan tràn trong vùng và Đức Dalai Lama yêu cầu Rinpoche đến Dalhousie để ban lễ quán đảnh Hayagriva. Việc hành trì vị bổn tôn (Buddha-figure) đầy uy lực này, cộng với vệ sinh môi trường, sẽ giúp người dân tránh nhiễm bệnh. Dù là một trong số ít người Tây phương nhận lễ quán đảnh này, tôi đã không có dịp may gặp riêng Rinpoche, vì ngài còn phải ban lễ quán đánh này ở những nơi khác, và đã nhanh chóng rời Dalhousie.

 

Không Làm Giáo Sư Đại Học Và Dọn Về Dharamsala

Khi chúng tôi gặp lại lần sau thì đã có nhiều thay đổi. Vào mùa thu năm 1971, Đức Dalai Lama yêu cầu Geshe Dhargyey giảng dạy Phật pháp cho người ngoại quốc ở Thư Viện Tác PhẩmVăn Khố Tây Tạng (Library of Tibetan Works & Archives) ở Dharamsala. Sharpa Rinpoche và Khamlung Rinpoche làm thông dịch viên cho Geshe la. Tôi thỉnh ý Đức Dalai Lama xem tôi có thể giúp gì cho thư viện, chẳng hạn như dịch sách, và Ngài đồng ý. Trước tiên, tôi nên nộp luận án, lãnh bằng Tiến sĩ rồi quay trở về Dharamsala. Cuộc chiến tranh vừa bùng nổ tại biên giới với Parkistan không xa hơn một trăm dặm đã thuyết phục tôi nên sớm rời khỏi nơi này. Tôi trở về Harvard và làm theo lời khuyên của Đức Dalai Lama. Trước sự ngạc nhiên của các giảng sư, tôi đã từ chối sự nghiệp làm giảng sư đại học và dọn về Dharamsala vài tháng sau. Đó là tháng 9 năm 1972.

Trở Thành Đệ Tử Của Rinpoche

Serkong Rinpoche vừa rời khỏi Nepal, trải qua hai năm ban lễ quán đảnhtruyền khẩu cho một số tu viện vừa được xây dựng ở đó. Cuối cùng, khi ngài trở về Dharamsala vào mùa thu năm 1974 thì tôi đã có thể nói tiếng Tạng đủ để trò chuyện trực tiếp với ngài. Dù lúc đầu, tôi không biết, nhưng dường như Rinpoche biết là tôi có duyên làm thông dịch viên cho ngài. Ngài thể hiện điều này bằng cách khuyến khích tôi viếng thăm ngài thường xuyên và ngồi bên cạnh ngài trong khi ngài gặp gỡ người khác. Rồi sau các buổi hẹn, Rinpoche nói chuyện với tôi và giải thích các từ ngữ tiếng Tạng để chắc chắn là tôi hiểu cuộc đối thoại vừa rồi.

Sau một thời gian ngắn, Rinpoche ban cho tôi một bộ ba bức tranh của Đức Văn Thù Sư Lợi Trắng (White Manjushri), Đức Sarasvati Trắng (White Sarasvati) và Đức Tara Trắng (White Tara) mà người dân ở Spiti đã cúng dường cho ngài không lâu trước đó. Đây là các vị bổn tôn chính trong việc phát triển nhân cách và thiền định của ngài từ thuở ấu thơ. Theo thứ tự, các vị bổn tôn này là hiện thân của trí tuệ sáng suốt để phổ độ chúng sanh, nội quán lỗi lạc cho sự thể hiện văn chương trong sángsáng tạo, cùng năng lượng thiết yếu cho một đời sống trường thọ, có hiệu năng cao. Món quà đầy ý nghĩa sâu sắc này đã khẳng định mối quan hệ giữa chúng tôi. Khi tôi hỏi ngài là tôi có thể làm đệ tử của ngài hay không, Rinpoche kiên nhẫn mỉm cười đối với thói quen thông thường của người Tây phương, cứ muốn nói ra một điều đã quá hiển nhiên,

Huấn Luyện Tôi Trở Thành Một Thông Dịch Viên Và Giảng Sư

Sau đó, Rinpoche bắt đầu huấn luyện tôi thành một thông dịch viên một cách hệ thống, mà không hề nói rằng ngài sẽ làm như vậy. Trước tiên, ngài luyện trí nhớ của tôi. Bất kỳ khi nào tôi đến viếng thăm ngài, Rinpoche sẽ bất ngờ bảo tôi lập lại từng chữ một trong những lời ngài vừa nói. Tương tự như vậy, ngài sẽ bắt tôi lập lại những gì tôi vừa nói. Một khi đã bắt đầu thông dịch cho ngài vào mùa thu năm 1975, Rinpoche thường bảo tôi dịch lại những lời của ngài thành tiếng Tạng, để chắc chắn là tôi không nói sai, thêm thắt hay thiếu sót điều gì. Thật ra, trong suốt tám năm phụng sự như một thông dịch viên cho ngài, tôi cảm thấy mỗi khi Rinpoche bảo tôi dịch lại như vậy là tôi đã hiểu lầm những gì ngài nói. Dường như Rinpoche luôn luôn cảm nhận được, mỗi khi tôi dịch sai.

Rồi Rinpoche bắt đầu đưa ra những bài tóm tắt về giáo pháp của ngài trong năn phút ở cuối các buổi giảng và bảo bây giờ đến lượt tôi phải tóm lược những bài ấy. Bằng cách này, ngài không những bắt đầu luyện cho tôi cách thông dịch những bài giảng rất dài, mà còn dạy tôi cách giảng dạy nữa. Đôi khi, ngài còn nói chuyện với thị giả trong khi tôi đang nói phần tóm tắt, để thử thách khả năng tập trung tinh thần của tôi. Một vị thầy giỏi thì không thể xao lãng hay rối trí vì tiếng động xung quanh.

Luyện Trí Nhớ

Khi dạy riêng cho tôi, Rinpoche không bao giờ cho phép tôi ghi chép bất cứ điều gì. Tôi phải nhớ tất cả mọi điều và ghi chép sau đó. Không lâu sau, ngài cho tôi nhiều việc để làm sau giờ học, để tôi chỉ có thể ghi chép lại những điều vừa học được một thời gian sau, vào buổi tối. Cuối cùng, đôi khi ngài ngừng lại giữa buổi giảng mà tôi đang thông dịch và giải thích điều gì riêng cho tôi về bài học liên quan đến một đề tài hoàn toàn khác biệt, như một chuyện ngoài lề, rồi trở lại với bài giảng trước đó mà không cho tôi một phút nào để ngẫm nghĩ về những lời ngài vừa nói, hay viết điều gì xuống giấy.

Nếu như tôi thắc mắc về điều gì mà Rinpoche đã dạy trước đó rồi thì ngài sẽ trách mắng nặng nề vì óc lãng trí của tôi. Tôi nhớ có một lần tôi hỏi ngài ý nghĩa của một từ ngữ và Rinpoche đã trả lời một cách gãy gọn, “Ta đã giải thích từ đó cho con bảy năm về trước rồi! Ta nhớ rất rõ. Tại sao con không nhớ?” Trên thực tế, ngài nhận xét rằng càng lớn tuổi thì trí óc của ngài lại càng minh mẫn hơn.

 

Cộng Tác Với Tôi Để Tìm Các Từ Ngữ Dịch Thuật Chính Xác Hơn

Serkong Rinpoche không chỉ quan tâm đến việc phát triển trí nhớ tốt cho tôi, mà còn lo việc dịch thuật chính xác. Từ kinh nghiệm giảng dạy cho người Tây phương, ngài nhận ra rằng nhiều sự hiểu lầm của họ phát xuất từ việc thông dịch nhầm lẫn một số từ ngữ chuyên môn. Vì vậy, ngài đã hợp tác với tôi để phát triển các từ ngữ mới trong tiếng Anh. Ngài kiên nhẫn giải thích ý nghĩa của mỗi một từ ngữ tiếng Tạng, rồi hỏi về sự liên hệ của những từ ngữ tương đương trong tiếng Anh, để cố gắng giúp cho ý nghĩa của chúng phù hợp với nhau. Ngài luôn luôn khuyến khích tôi thử nghiệm những từ ngữ mới và không bị lệ thuộc vào những quy ước khiếm khuyết. Các từ ngữ Tây Tạng tiêu chuẩn được sử dụng để chuyển dịch sách Phật từ tiếng Phạn sang tiếng Tạng đã dần dần tiến hóa sau nhiều thế kỷ. Tương tự như vậy, quá trình duyệt xét lại cũng sẽ xảy ra một cách tự nhiên, khi người ta chuyển dịch sách sang các ngôn ngữ Tây phương.

 

Dạy Tôi Cách Xã Giao và Tính Khiêm Tốn

Lần đầu, khi thỉnh cầu ngài nhận tôi làm đệ tử, đặc biệc là xin ngài dạy tôi phương tiện thiện xảo, cách giúp đỡ người khác một cách khôn khéo và bi mẫn. Xuất thân từ giai cấp học thức ưu tú mà tôi luôn luôn là người xuất sắc, việc phát triển cá tính của tôi chỉ xảy ra một chiều. Tôi cần phải học cách xã giao và tính khiêm tốn. Vì vậy nên Rinpoche chỉ gọi tôi bằng một cái tên, đó  là “Đần Độn”, và luôn luôn nêu ra tất cả những điều sai lầm hay ngu xuẩn mà tôi đã nói hay làm. Thí dụ như khi thông dịch cho ngài, Rinpoche nhất định muốn tôi phải hiểu toàn bộ những điều ngài nói. Bất kỳ khi nào tôi ấp úng, không cần biết phải mất bao nhiêu thì giờ hay tôi sẽ ngượng ngùng cỡ nào khi bị gọi là thằng ngốc, ngài sẽ không bao giờ bỏ qua một chữ nào nếu tôi không hiểu và dịch nó một cách chính xác. Dù những phương pháp như vậy không thích hợp cho các đệ tử có lòng tự ti, nhưng cách tiếp cận không nhượng bộ của ngài lại phù hợp với tôi một cách tuyệt hảo.                                                                                                                                                                           Một lần nọ ở Lavaur, nước Pháp, Rinpoche ban một luận giải về một bản văn phức tạp. Khi tôi ngồi xuống để thông dịch, Rinpoche còn bảo tôi so sánh một vài phiên bản của luận giải này và hiệu đính bản văn trong khi ngài thuyết giảng nó. Tôi không có cây viết, nhưng đối diện ngay trước mặt tôi là một phụ nữ nhuộm tóc đỏ rực rỡ, thoa quá nhiều son đỏ, miệng ngậm một đóa hoa hồng trong suốt buổi giảng. Tôi hỏi có ai có dư một cây viết để cho tôi mượn và bà ấy cho tôi mượn viết của bà. Cuối buổi giảng, tôi hoàn toàn kiệt sức. Khi tôi đứng lên, người phụ nữ xòe tay ra, không nói lời nào. Vì quá bận tâm đến bản thân nên tôi nghĩ rằng bà ta muốn bắt tay tôi để chúc mừng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Khi tôi đưa tay ra để bắt tay bà, Rinpoche đã gầm lên, “Đần Độn, trả lại cây viết cho bà ấy!”.

Dạy Tôi Chỉ Lo Giúp Đỡ Người Khác Mà Không Mong Lời Khen Ngợi

Để kềm chế tính vị kỷ của tôi, Rinpoche còn dạy tôi chỉ làm việc vì người khác. Ngài  làm điều này bằng cách không bao giờ chấp nhận ban cho tôi bất kỳ giáo huấn hay lễ quán đảnh nào mà tôi thỉnh cầu cho riêng mình. Ngài chỉ cho phép nếu người khác thỉnh cầu và tôi làm thông dịch viên. Rinpoche chỉ dạy riêng cho tôi những điều ngài cảm thấy quan trọng mà tôi cần phải học hỏi.

Hơn nữa, Rinpoche không bao giờ trực tiếp khen tôi mà luôn luôn trách mắng, đặc biệttrước mặt người khác, để tôi không bao giờ nao núng vì những lời chỉ trícháp lực. Trên thực tế, tôi nhớ là Rinpoche chỉ nói cảm ơn với tôi một lần, vào cuối chuyến du hành phương Tây đầu tiên mà chúng tôi cùng đi. Bằng cách sử xự cứng rắn như vậy, ngài đã luyện cho tôi chỉ có động lực muốn làm lợi lạc cho người khác, chứ không vì muốn được khen ngợi hay làm vui lòng thầy. Khi thấy rằng mong đợi lời cảm ơn của ngài cũng giống như một con chó  mong được vuốt ve trên đầu, tôi không còn kỳ vọng bất cứ dấu hiệu tán thành nào từ phía ngài nữa. Thậm chí, nếu ngài có khen thưởng đi nữa thì tôi có thể làm gì được, ngoài việc vẫy đuôi!

 

Khuyến Khích Tôi Tự Đọc Các Kinh Sách Cao Quý Bằng Tiếng Tạng

Rinpoche luôn luôn khuyến khích người khác tự học cách đọc các Kinh sách cao quý. Bất cứ khi nào ai có thắc mắc hay đặt câu hỏi, Rinpoche sẽ bảo họ tự tìm tòi và kiểm chứng. Ngài giải thích rằng ngài không tự đặt ra những giáo huấn này mà chúng xuất xứ từ nguồn gốc có căn cứ. Ngài còn bảo rằng không ai có thể mong một lama dạy cho họ tất cả mọi điều. Hơn nữa, đối với người Tây phương, ngài lập lại lời tuyên bố của Đức Dalai Lama là trong vòng hai trăm năm tới hay hơn nữa, toàn bộ giáo huấn của Đức Phật chỉ có mặt trong Tạng ngữ. Vì vậy, ngài hết lòng khuyến khích các đệ tử Tây phương học tiếng Tạng. Ngài nói rằng mỗi một âm tiết trong tiếng Tạng mang đầy ý nghĩa. Vì vậy, khi giảng Pháp, Rinpoche thường giảng thêm ý nghĩa của các từ ngữ chuyên môn trong tiếng Tạng.

Để phù hợp với sự tiếp cận này, Rinpoche cho tôi tiếp tục việc nghiên cứu bằng cách đọc các Kinh sách và cho phép tôi đặt bất kỳ câu hỏi nào về các tài liệu này. Ngài nói rằng nếu tiếp tục theo cách này, cuối cùng, các đệ tử có thể nghiên cứu bất kỳ đoạn nào trong văn học Phật giáo, giống như bơi lội trong biển khơi hay bay lượn trên không trung. Ngài giải thích rằng các vị lama cần phải dạy cho đệ tử tập đứng trên đôi chân của riêng họ, rồi tập bay, và vị thầy sẽ hướng dẫn họ nghiên cứu và đọc những đề tài gì. Sau đó, vị thầy sẽ đẩy đệ tử ra khỏi tổ và họ phải tự lực cánh sinh.

Dạy Tôi Không Phụ Thuộc Vào Thầy

Rinpoche dùng nhiều phương pháp để dạy tôi không bao giờ phụ thuộc vào ngài. Thí dụ như dù chúng tôi có một mối liên hệ vô cùng mật thiết, nhưng ngài không bao giờ giả vờ có thể giúp tôi trong mọi trường hợp. Một lần nọ, tôi bị bệnh khá nặng và loại thuốc mà tôi dùng không có hiệu quả gì. Khi nhờ ngài bói toán xem loại thuốc nào thích hợp với tôi nhất, chẳng hạn như thuốc Tây, thuốc Ấn Độ hay Tây Tạng, và bác sĩ nào đáng tin cậy nhất, Rinpoche nói rằng hiện thời, quẻ bói của ngài không được rõ ràng. Ngài đã gởi tôi đến một vị lama cao quý khác để giúp tôi tìm cách trị bệnh hữu hiệu hơn, và tôi đã sớm lành bệnh.                                                                                                                                                                                                                                           Giúp Tôi Chuẩn Bị Để Thông Dịch Cho Đức Dalai Lama

Sau một vài năm, tôi nhận ra là Rinpoche đang huấn luyện để tôi có thể thông dịch cho Đức Dalai Lama. Trên thực tế, đôi khi tôi cảm thấy mình giống như một món quà mà Rinpoche đang chuẩn bị để dâng lên cho Đức Dalai Lama. Tuy nhiên, để phụng sự một cách đúng đắn, tôi không bao giờ được dính mắc hay dựa dẫm vào Đức Dalai Lama. Tôi chỉ giống như một trong số nhiều cây gậy đánh gôn (golf clubs) mà Ngài có thể chọn lựa để phù hợp với nhu cầu cần người dịch thuật. Tôi còn phải đương đầu với áp lực nặng nề và vượt qua bản ngã của mình.

Vì vậy, Rinpoche dạy tôi cách cư xử đúng đắn để phụng sự một vị Dalai Lama. Chẳng hạn như các thông dịch viên cho Ngài không bao giờ được quơ tay như múa, hay nhìn chằm chằm vào Ngài như trong sở thú. Thay vì vậy, họ phải cúi đầu xuống, hoàn toàn tập trung tinh thần và không bao giờ nói thêm điều gì theo ý riêng của họ. Họ phải liệt kê danh tánh và các điểm được nêu ra theo đúng như thứ tự Ngài đã nói, không bao giờ được thay đổi hay xem bất cứ điều gì Đức Dalai Lama nói là vô nghĩa hay không có chủ đích.

Danh xưng của các lama phải được thông dịch đúng như cách Đức Dalai Lama sử dụng, không phải như cách người ngoại quốc gần như gọi tất cả các lama là “Đức Thánh” (“His Holiness”). Thật ra, các vị lama này sẽ kinh hãi nếu biết rằng người ngoại quốc gọi các ngài bằng danh xưng tôn kính như họ gọi Đức Dalai Lama. Giống như nhà thờ Công giáo và các nghiệp đoàn ngoại giao, nghi thức và cách sử dụng danh xưng theo cấp bậc của Tây Tạng cũng theo quy định nghiêm chỉnh.

Khi tôi thông dịch cho Đức Dalai Lama, Serkong Rinpoche thường ngồi đối diện với tôi. Nhìn thấy ngài giúp cho tôi có chánh niệm về cách dạy dỗ của ngài. Chẳng hạn như trong một dịp thông dịch cho Đức Dalai Lama tại Dharamsala, trước cử tọa vài trăm người Tây phương và vài ngàn người Tây Tạng, Ngài đã kêu tôi ngưng lại và cười rộ lên, “Anh ấy vừa mới dịch sai!”. Đức Dalai Lama hoàn toàn hiểu rõ tiếng Anh. Mặc dù tôi chỉ muốn chui xuống dưới tấm thảm như một con kiến, nhờ có Rinpoche ngồi trong tầm nhìn mà tên Đần Độn đã giữ được bình tĩnh.

Dùng Phương Pháp Mạnh Để Sửa Đổi Hành Vi Dại Dột Của Tôi

Tuy nhiên, đôi khi, tôi cần sự nhắc nhở mạnh mẽ để học những bài học. Thí dụ như một trong những dịp đầu tiên tôi thông dịch cho Đức Dalai Lama là một buổi thuyết pháp mà Ngài giảng cho khoảng muời ngàn người dưới cội bồ đềBồ Đề Đạo Tràng. Cái micro (microphone) của tôi bị hư, nên Đức Dalai Lama bảo tôi gần như ngồi trong lòng của vị chủ lễ (chant master) để dùng chung micro với vị thầy này. Rồi cái micro này cũng bị hư luôn. Thế là Đức Dalai Lama bảo tôi ngồi dưới đất, giữa pháp tòa của Ngài và Serkong Rinpoche ở hàng đầu, và Ngài đưa micro của Ngài cho tôi mỗi lần giảng xong bằng tiếng Tạng. Tôi quá mất bình tĩnh đến nỗi không thể tự chủ, nên đã nhận và đưa micro cho Đức Dalai Lama bằng một tay, thay vì phải dâng bằng cả hai tay dang thẳng, theo tục lệ kính cẩn. Sau đó, Rinpoche gần như đánh tôi vì tôi đã lấy chiếc micro giống như con khỉ vồ trái chuối.

Cách Hành Xử Đúng Đắn Tại Các Buổi Thuyết Pháp Của Đức Dalai Lama

Nói chung, Rinpoche còn lo cho người Tây phương, để họ biết cách cư xử đúng đắn nhất đối với Đức Dalai Lama. Hành vi của họ trong các buổi thuyết pháp thường khiến cho Rinpoche hoảng sợ. Người nói rằng việc nhận thức Đức Dalai Lama là ai là điều quan trọng. Ngài không phải là một vị lama tái sinh bình thường. Mọi người phải có sự tôn trọng và khiêm cung đặc biệt trước sự hiện diện của Ngài. Thí dụ như, trong lúc nghỉ giải lao để uống trà trong một lễ quán đảnh hay thuyết pháp, việc đứng nói chuyện trong tầm nhìn của Ngài như thể Ngài không có mặt ở đó là điều vô cùng bất lịch sự. Cách hành xử đúng đắnbước ra ngoài khi cần nói bất cứ chuyện gì.

Trong dịp một tổ chức Phật giáo Tây phương bảo trợ một buổi thuyết pháp mà tôi thông dịch cho Đức Dalai Lama tại Dharamsala, Ngài đã có phần trả lời các câu hỏi được viết xuống. Sau mỗi buổi thuyết pháp, Rinpoche bảo tôi đọc cho ngài nghe những câu hỏi được nộp vô cho ngày hôm sau, và dứt khoát bác bỏ bất cứ câu nào có vẻ ngớ ngẩn hay không đáng kể. Rinpoche thường bảo tôi viết lại hay chỉnh sửa câu hỏi để nó trở nên sâu sắc hơn. Người ta không nên phí thời giờ của Đức Dalai Lama, hay phí dịp may cho nhiều người có được lợi lạc từ câu trả lời của Ngài. Đôi khi, Đức Dalai Lama nhận xét rằng các câu hỏi tuyệt vời và sâu sắc đến dường nào. Tôi học được cách làm việc theo quá trình hiệu đính này, mỗi khi được du hành với Đức Dalai Lama.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8067)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35716)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19814)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11781)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23298)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13433)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5868)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10673)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10439)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10117)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20960)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6228)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6873)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8926)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6050)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18192)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6397)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6775)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6582)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13092)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5903)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7923)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10257)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7910)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9903)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9111)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6013)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24599)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36507)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7768)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11587)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10083)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5260)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5454)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10050)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7916)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9397)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8688)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46644)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6933)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12421)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5842)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14602)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13091)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12525)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14652)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12530)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10996)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9672)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16765)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8507)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5997)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9990)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6406)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11405)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7092)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46825)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13540)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8446)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6890)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9219)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6213)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6942)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17953)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18284)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15902)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6990)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31336)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9605)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7730)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21704)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34245)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33423)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14278)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35747)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13038)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15805)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13720)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33140)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26511)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41493)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40433)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20117)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33775)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29720)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33764)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18941)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22815)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22550)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49075)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 12004)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11190)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22601)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18051)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15163)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22753)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16025)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13140)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19781)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12093)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant