Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Visākhā - vị nữ đại hộ pháp thời đức Phật

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8809)
Visākhā - vị nữ đại hộ pháp thời đức Phật

Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada đã bảo cô tập trung 500 tớ gái, 500 thị nữ với 500 cỗ xe đi đón đức Phật nhân dịp Ngài đến viếng Bhaddiya, quê cô, trong vương quốc Anga. Vui vẻ vâng lời, cô đã tiếp đón, đảnh lễ đức Phật rồi cung kính ngồi sang một bên. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, cô đắc quả Tu-đà-hoàn.

Lúc ở tuổi mười lăm, cô đã có được sức mạnh như đàn ông, vẻ mỹ miều, duyên dáng của thiếu nữtrí tuệ hơn người, sáng suốt trong việc thế gian cũng như trong phạm vi tinh thần, đạo đức. Cô được các vị Bà-la-môn chọn làm người vợ lý tưởng cho vị thầy trẻ tuổi của mình, thầy Punnavaddhana, con triệu phú Migara. Lễ cưới cử hành long trọng. Ngoài của hồi môn, người cha sáng suốt còn dạy cô những điều sau:

1 - Không đem lửa trong nhà ra ngoài ngõ.

2 - Không đem lửa ở ngoài vào nhà.

3 - Chỉ cho đến những người biết cho.

4 - Không cho đến những người không biết cho.

5 - Cho đến cả hai, những người biết cho và những người không biết cho.

6 - Ngồi một cách an vui.

7 - Ăn một cách an vui.

8 - Ngủ một cách an vui.

9 - Coi chừng lửa.

10- Tôn trọng các vị trời trong nhà.

Các điều ấy có nghĩa là:

1.- Không nên nói xấu chồng và cha mẹ chồng với người ngoài. Cũng không đem chuyện xấu bên nhà chồng thuật lại với người ngoài.

2.- Không nên nghe lời tường thuật hay những câu chuyện của người khác.

3.- Đồ trong nhà chỉ nên cho những người nào mượn rồi trả lại.

4.- Không nên cho những người mượn đồ mà không trả lại.

5.- Phải giúp đỡ những người nghèo khó, dù họ có trả lại được hay không.

6.- Phải ngồi đúng chỗ thích nghi.

7.- Trước khi ăn phải coi có dọn đủ cơm cho cha mẹ chồng và cho chồng hay chưa. Cũng phải coi chừng người nhà có được chăm sóc đầy đủ chưa.

8.- Trước khi đi ngủ phải quan sát nhà cửa, xem người nhà đã làm xong việc chưa, cha mẹ chồng đã đi ngủ chưa.

9.- Phải xem chồng và cha mẹ chồng như lửa. Mỗi khi làm việc với chồng và cha mẹ chồng phải hết sức thận trọng như khi làm việc với lửa.

10.- Chồng và cha mẹ chồng phải được coi như những vị trời trong nhà.

Tình thương của Visākhā bao trùm đến cả loài thú. Một đêm, hay tin con ngựa cái ở vườn sau sắp đẻ, cô tức khắc cùng các nô tỳ đốt đuốc ra tận chuồng và hết lòng chăm sóc ngựa cho đến khi nó đẻ xong mới vào nhà đi ngủ.

Ngày nọ, ông cha chồng đang ngồi ăn một món cháo rất ngon. Ngay lúc ấy có một vị Tỳ-kheo vào nhà khất thực. Visākhā đứng sang một bên để cha chồng trông thấy nhà sư. Thấy cha chồng làm lơ, Visākhā bạch với vị Tỳ-kheo: “Bạch sư, thỉnh sư qua nhà khác. Cha chồng tôi đang dùng những món ăn thiu”. Tức giận, cha chồng truyền gia đinh đuổi Visākhā ra khỏi nhà.

Visākhā lễ phép thưa:

- Không phải cha đem con về như người mua nô lệ. Trong lúc cha mẹ còn sanh tiền, con gái không thể bỏ nhà chồng ra đi như vậy. Xin cha cho mời tám người trong thân tộc đến xét xử xem con có lỗi hay không?

Nhà triệu phú chấp thuận lời đề nghị hữu lý ấy, cho mời tám vị thân nhân kia lại phân trần:

- Nhân một ngày lễ, tôi đang ngồi ăn cháo nấu với sữa đựng trong một cái chén vàng mà con dâu tôi nói tôi ăn đồ không sạch. Xin các vị vạch lỗi nó và đuổi nó ra khỏi nhà.

Visākhā giải thích:

- Tôi không nói đúng hẳn như vậy. Lúc cha chồng tôi dùng cháo thì có một vị Tỳ-kheo đến khất thực. Cha chồng tôi thấy mà làm ngơ. Tôi nghĩ bụng cha không làm được điều thiện nào trong hiện tại mà chỉ thọ hưởng phước báu đã tạo trong quá khứ nên tôi đã bạch với vị Tỳ-kheo là: “Bạch sư, thỉnh sư qua nhà khác. Cha chồng tôi đang dùng những món ăn thiu”.

Mọi người nhìn nhận Visākhā không có lỗi. Ông cha chồng cũng đồng ý nhưng chưa hết giận, bắt tội cô giữa đêm khuya mà đi ra sau vườn. Một lần nữa, Visākhā giải thích vì sao cô làm vậy. Chưa chịu ngừng, ông cha chồng bắt qua chuyện cô học 10 điều trước khi về nhà chồng, lấy ví dụ “Không đem lửa trong nhà ra ngoài ngõ” là không được sống với láng giềng khi họ cần mồi lửa. Nhân cơ hội, Visākhā giải thích rành rẽ từng điều và sau khi đã chứng minh mình không có lỗi, cô tỏ ý muốn ra đi theo lời cha chồng đuổi.

Nhà triệu phú đổi hẳn thái độ, xin lỗi cô vì đã hiểu lầm và sau đó, đồng ý theo lời xin của cô, cho cô được tự do sinh hoạt theo truyền thống tôn giáo của mình. Cô đã thỉnh đức Phật về nhà thọ trai. Sau khi thọ thực, Phật thuyết một thời pháp. Ông cha chồng tò mò nghe trộm và được đắc ngay quả Tu-đà-hoàn.

Khi Visākhā sinh được một con trai, đức Phật được cung thỉnh đến tư gia thọ trai và bà mẹ chồng sau thời pháp cũng đã đắc quả Tu-đà-hoàn. Nhờ khôn khéo, trí tuệ và nhẫn nại, cô dần cảm hóa được nhiều người và chuyển hóa cả gia đình bên phía nhà chồng trở thành một gia đình Phật giáo, sống an vui, hạnh phúc.

Một lần, sửa soạn đến tịnh xá lễ Phậtnghe pháp, Visākhā mặc bộ đồ đẹp nhất của cha cho nhưng nghĩ như thế không thích nghi nên đã thay trang phục khác, gói chiếc áo kia giao cho người nữ tỳ cầm giữ. Sau khi nghe pháp, họ ra về bỏ quên lại gói đồ. Ngài Ananda nhìn thấy và theo lời dạy của Phật đem cất, chờ trao lại cho chủ. Khi Visākhā biết việc bỏ quên gói đồ, sai người nữ tỳ trở lại lấy đem về nếu chưa có ai động đến. Còn nếu có ai đã chạm đến gói đồ thì thôi. Người nữ tỳ trở về thuật lại tự sự. Visākhā sau đó đến hầu Phật và ngỏ ý muốn làm một việc thiện với số tiền bán bộ y phục đó. Đức Phật khuyên nên cất một tịnh xá phía Đông cổng vào.

Vì không có ai đủ tiền mua bộ y phục quý giá đó nên Visākhā đã mua lại, dùng số tiền trên kiến tạo ngôi tịnh xá Pubbārāma rộng rãi, được Phật chấp thuận nhập hạ sáu lần nơi ấy. Kinh sách ghi lại rằng thay vì la rầy người tỳ nữ vô ý kia, Visākhā lại chia phần công đức kiến tạo ngôi tịnh xá cho nữ tỳ đã tạo cho Visākhā cơ hội cúng dường.

Visākhā đã đóng góp nhiều lĩnh vực Phật sự khác nhau. Đôi khi đức Phật dạy bà đi giải hòa những mối bất đồng giữa các tỳ-kheo-ni. Cũng có lúc Visākhā thỉnh cầu đức Phật ban hành một vài giới cho chư vị tỳ-kheo.
Do phẩm hạnh trang nghiêm, tư cách thanh nhã, thái độ tế nhị, ngôn ngữ khéo léo, do biết vâng lờitôn kính bậc trưởng thượng, quảng đại với người kém may mắn, lịch duyệttâm đạo nhiệt thành, Visākhā được lòng tất cả những ai đã được gặp.

Visākhā có 10 con trai, 10 con gái, tất cả đều hiếu thảo. Bà thọ 120 tuổi.■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 36


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17702)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24548)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26085)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13802)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13201)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22123)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19111)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10026)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11938)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13063)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15236)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10562)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21879)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10159)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9867)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9765)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10208)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27555)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17865)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13227)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25239)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34735)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26807)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19100)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9031)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13113)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9039)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9478)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9169)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11824)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18563)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 10697)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10983)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28027)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17900)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14426)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16381)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13223)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15590)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14722)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7617)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17111)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8415)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30792)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant