Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa “nương Thuyền Bát Nhã” Là Gì?

16 Tháng Hai 202417:22(Xem: 853)
Ý Nghĩa “nương Thuyền Bát Nhã” Là Gì?

Ý Nghĩa “ Nương Thuyền Bát Nhã” Là Gì?


Thích Nữ
 Hằng Như

 123

 



I. Ý NGHĨA BÁT NHÃ:

Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhãBát nhã là thuật ngữ xuất phát từ tiếng Pãli là “Panna”, tiếng Sanskrit là “Prajna”. Các nhà Phật giáo cổ thời Trung Hoa đã dịch âm hai từ đó là “Bát-nhã” có nghĩa là trí huệ hay trí tuệ, được hiểu là trí huệ toàn giác. Để phân biệt với trí huệ thông thường, các nhà Phật học Trung Hoa thường thiết lập thêm 2 từ “trí huệ” trước hai từ “Bát nhã” gọi là “trí huệ Bát nhã”.

Theo từ gốc, đầu ngữ của “Panna” hay “Prajna” là “Pa” hay “Pra” có nghĩa là đầy đủ. Tiếp ngữ kế là “nna” (nana) hay “jna”(jnana) có nghĩa là Trí.

Như vậy “Panna” hay “Prajna” là trí huệ đầy đủ hay trí huệ tối thắng. Do vậy nên Bát Nhã được định nghĩa là trí huệ siêu vượt, đầy đủ, tối thắng, và cũng được gọi là huệ tự phát. Tùy lúc tùy thờiBát nhãcòn có nghĩa là Phật tánh, hoặc là tiềm năng giác ngộ, hay là tuệ giác tức trí tuệ đưa đến giác ngộ. (*)

 

II. NƯƠNG THUYỀN BÁT NHÃ

 Như vậy “nương thuyền Bát Nhã” là “nương vào tuệ giác”. Nhưng nương vào tuệ giác để làm gì? Người tu học Phật được dạy rằng nương vào tuệ giác để đến bờ giác ngộ giải thoát, nhưng gần hơn hết là để quay về với Tánh giác, sâu sắc nữa là nhận ra Phật tánh nơi chính mình.

Trí tuệ có hai loại, một loại là sự thông hiểu của ý thức qua tiến trình học hỏi thu nhập từ nơi gia đình, trường học, xã hội. Cái biết hay cái nhận thức này thuộc về kiến thức thế gian là cái biết có lời, nó có thể thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Và, một loại nhận thức không lời nhờ vào tu tậpmà phát huy trí tuệ của chính mình đó là cái biết của tánh giác.

Từ khi con người được sinh ra đời là đã bắt đầu sống với cái biết thế gian. Cái biết thế gian là cái biết học hỏi từ những điều do con người ở cùng một vùng, một quốc gia chế định. Thí dụ người Việt Nam, khi nói đến màu sắc, người ta phân chia và đặt ra đây là màu trắng, kia là màu vàng, nọ là màu xanh, hay kia là xe máy, xe hơi,  xe lửa, tàu ngầm, tàu bay... Người quốc gia khác thì có tên gọi khác, thí dụ như người Mỹ, màu trắng họ gọi là white, màu vàng là yellow, màu xanh là blue chẳng hạn. Ngay cả mỗi con người sống trên đời này, ai cũng có một cái tên để gọi như cô Hai, cô Ba, anh Tư, anh Năm. Thú vật cũng được phân loại  đây là con gà, kia là con vịt, con ngỗng, con chó, con mèo, con heo, con trâu, con bò... Kia là con kiến, nọ là con sâu, con bướm... Đây là cây thông, kia là cây cam, cây bưởi, cây ổi ... Mỗi sự kiện, mỗi hành động, mỗi thái độtrạng thái, đều có từ ngữ dành cho nó. Thí dụ như: Đi học, đi làm, tranh cãi, bực bội, vui, buồn, thương, ghét, hạnh phúc, khổ đau v.v... Tóm lại tất cả mọi hiện tượng trên thế gian đều được đặt tên. Nhưng thật ra khi mới xuất hiện trên thế gian này, chúng không có tên. Cái nhà không nói chúng là cái nhà. Chiếc xe không nói chúng là chiếc xe. Em bé mới lọt khỏi lòng mẹ, không tự xưng mình là bé A hay bé B, cũng không tự phân biệt cho mình là con trai hay con gái.

Ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, dấu hiệu, tên gọi,... là những thứ người ta đặt ra và gán lên cho hiện tượng thế gian, tuy nó chỉ là giả danh nhưng được mọi người chấp nhận và xử dụng, lâu dần thành tập tục, tập quán, văn hóa... của một quốc gia.  Kiến thức thế gian rất cần thiết, vì nhờ có nó, mà đời sống con người trong cộng đồng xã hội giữ được trật tự, nền văn minh kỷ thuật ngày một phát triển giúp cho đời sống của con người vượt qua những khó khăn được dễ dàng hơn. Nhưng ở một cái nhìn khác, người khôn ngoan hay khù khờ sống trong cái biết thế gian này, người nào cũng mong muốn được thỏa mãn sự đòi hỏi của ngũ dục, nên tham sân cũng từ đó mà xuất hiện. Tham, sân là nguồn gốc lôi cuốn con người vào những lo âu phiền não. Khi bị phiền não khống chế thì ngay lúc đó mình không còn là mình nữa, mình đã đánh mất chính mình rồi!

Tuệ giác là tánh thấy biết sáng suốttự nhiên và chân thật. Nó biết đối tượng qua giác quan khi mắt thấy, tai nghe, thân đụng chạm. Nếu không có đối tượng nó cũng biết, biết là không có đối tượng trước giác quanĐặc biệt cái biết này chỉ ghi nhận mà không để vọng thức phân biệtso sánh hay tình cảm thương ghét, tức tham-sân-ngã xen vào...  Nhờ vậy mà tuệ giác có thể giúp chúng ta thoát khỏi sự cám dỗ của ngũ dục. Tánh biết thầm lặng “đang là” này, ai cũng có, nhưng vì tướng biết lăng xăng “phải là” của ý thức che lấp, nên nó nằm yên trong tâm thức. Muốn khơi dậy tánh biết, người ta phải tu tập thiền định. Nhờ thiền định, tâm loại bỏ những vọng tưởng, tham, sân, si là những thứ gây trở ngại cho sự phát huy của trí tuệ tâm linh.  

 

III. THIỀN LÀ GÌ?

Giáo lý nhà Phật dạy có nhiều cách tu tập giúp cho tâm hành giả được yên lặng gọi là “định”. Khi tâm hành giả không bị cảnh trần lôi cuốn thì ngay khi đó hành giả đang sống thật với chính mình.

Trong bài kinh Tứ ĐếĐức Phật dạy cho năm anh em Kiều Trần Như, ngoài việc nhận ra sự thật về bốn đế nơi chính bản thân của mỗi người như:  Sự bất toại nguyện của đời sống con người là Khổ đếNguyên nhân gây ra khổ gọi là Tập đế. Dẹp được nguyên nhân gây ra đau khổđạt được trạng thái an lạc hạnh phúc gọi là Diệt đế. Và đế quan trọng, giúp hành giả đạt được Niết-bàn, đó là Đạo đế. Trong Đạo đế có những chi ngành đề cập đến việc tu thiền định.

Đạo đế là pháp tu tập gồm tám yếu tốChánh kiếnChánh tư duyChánh ngữChánh nghiệpChánh mạngChánh tinh tấnChánh niệm và Chánh định, còn gọi là Bát chánh đạo. Đường lối tutập này tương ưng với ba môn học Giới, Định, Tuệ. Chánh kiếnChánh tư duy, thuộc về Huệ hay Tuệ, tức kiến thức hiểu biết đúng sai, thiện ác. Nhờ có học chúng ta mới hiểu những điều cao quý mà Đức Phật đã dạy còn ghi lại trong Tam tạng giáo điển. Ngày xưa, người học Phật lắng tai nghe Đức Phật thuyết pháp, cố tâm ghi nhớ, lặp đi lặp lại cho thuộc, nên gọi là Văn tuệVăn tuệ là nghe.

Ngày nay, nguồn tư liệu về Phật học nhiều hơn xưa. Các công nghệ thông tin qua internet cũng như những luận đề Phật học do nhiều nhà nghiên cứu viết và in thành sách được phát hành khắp nơi trên thế giới, giúp người muốn học Phật có thể nghe, nhìn, đọc chứ không phải chỉ học qua phương pháp lắng nghe từ một vị Thầy mà thôi! Học từ nhiều vị Thầy cao minh, cho nên kiến thức của người học có thể  tích lũy và mở mang nhiều hơn. Có điều cần lưu ý, vì hiện nay tài liệu Phật phápphổ biến tràn ngập từ nhiều người không biết đâu là thật, đâu là giả, cho nên người học Phật cần phải có trí năng sáng suốt, đừng để bị rơi vào mê hồn trận bởi tà kiến.

Yếu tố thứ hai trong Bát chánh đạo là Chánh tư duyChánh tư duy tương ưng với Tư tuệ, nghĩa là dựa trên kiến thức có được qua Chánh kiến hay Văn tuệ, người học Phật cần phân tích, tổng hợp nguồn thông tin ấy, rồi suy tư, phân giải... cho đến khi bản thân mình thực sự thông hiểu rõ ràngnhững gì mình đã nghe đã học. Đó là Tư tuệ.

Nhưng kết quả của Chánh kiếnChánh tư duy hay Văn tuệTư tuệ không giúp người ta thoát khổ được. Nó chỉ giúp cho người học mở mang kiến thức thế gian hay kiến thức Phật họcNếu khôngkhéo thì kết quả này chỉ tô bồi thêm cho bản ngã ngày một kiêu ngạo thêm! Vì thế bước tiếp theocần phải ứng dụng lời Phật dạy để trải nghiệm, chứng ngộ chân lý trên thân tâm.

Trong Tăng Chi Bộ KinhĐức Phật dạy ngoài việc học thuộc lòng kinh, đọc tụng lưu loát kinh, hay thuyết pháp cho mọi người nghe những gì mình đã học thuộc lòng, thì đó chưa phải là tu hành theo đúng pháp. Mà vị Tỷ-kheo tu đúng pháp ngoài việc nhuần nhuyễn giáo lýtụng kinhthuyết trình... còn cần phải nỗ lực chuyên chú vào nội tâm an chỉ, tức thực hành thiền định giúp nội tâm ngừng hẵn mọi tư duy suy nghĩ, từ đó ánh sáng tuệ trí mới có cơ hội phát huy. Được như thế, thì vị đó mới thực sự sống theo pháp. (**)

Các chi kế trong Bát chánh đạo là Chánh ngữChánh nghiệpChánh mạng. Ba chi này thuộc về Giới học, có công năng giữ cho hành vi của thân khẩu được thanh tịnh không tạo nghiệp xấu.

 Chánh tinh tấnChánh niệmChánh định là phần tu tâm còn gọi là tu Thiền. Vậy Thiền là gì? Thiền hay Thiền-na là tiếng phiên âm của từ gốc Pãli là “dhyãna”. Khi Phật giáo truyền tới Trung quốc, người Hoa không phát âm được chữ “dhyãna” mà đọc trại thành “Chána”. Sang đến Nhật Bản thì từ này được  người Nhật phát âm thành “zen”. Người Việt Nam đọc theo âm Hán Việt là “Thiền” hoặc “Thiền-Na”. Thiền-na được giải thích nghĩa là “tĩnh lự”. Tĩnh là yên lặng, trái ngược với dao động, còn lự là tư duysuy nghĩ. Thiền-na nghĩa là tâm dừng suy nghĩ, dừng hoạt động của tư duy.

Thiền là phương pháp tu tập rèn luyện tâm ý từ vọng động chuyển sang vắng lặng, bằng cách hướng tâm vào một đề mục duy nhất, với một nội dung duy nhấtmục đích không để niệm khác xen vàoTu Thiền tiến triển qua hai giai đoạn: Thiền Chỉ và Thiền định.

Chỉ” nghĩa là dừng lại các hoạt động của tâm ý bằng phương pháp hướng tâm, đặt tâm vào một đối tượng, loại tất cả những chướng ngại làm tâm dao động  gọi chung là vọng tưởng. Khi tâm và đối tượng thể nhập thành một, thì đạt được trạng thái yên lặng gọi là “nhất tâm”. Khi nhất tâm được phát triển vững chắc thì có Định.  Người ta nói thiền Chỉ đưa đến thiền Định là vậy!

Khi tâm ở trong trạng thái vắng lặngan tịnh, thì tuệ giác vốn có  sẵn trong mỗi chúng ta sẽ phát huy. Đức Phật đã từng dạy tâm con người vốn sáng như mặt trăng, nhưng bị mây che nên trăng bị lu mờChúng ta có thể hiểu Đức Phật ví mặt trăng như là cái tâm sáng suốt, còn mây che ám mặt trăng xem như là  cái bản ngã tham, sân, si,  mạn, nghi, tà kiến ngăn che khiến ánh sáng trí huệ không hiển lộ được. Muốn cho mặt trăng hay tuệ giác phát huy trọn vẹn tánh sáng của nó thì phải dẹp cái mớ ô nhiễmvọng tâm đi. Tuệ giác ở đây chỉ cho cái chức năng sáng suốt, chiếu sáng, soi sáng như mặt trăng.  

Người tu tập có Chánh niệm vững chắc luôn “tỉnh táosáng suốt” nhận rõ những gì đang xảy ra ngay trong thực tại, thì không bị tham sân khởi lên, hoặc nếu chúng khởi lên, lập tức nhận ra chúng ngay tức khắc, và không để chúng lôi cuốn mình vào trò chơi tạo nghiệp. Nói cách khác, mình không bị đồng hóa theo bản ngã tham sân si.

Bản ngã là gì? Thực rabản ngã chỉ là sản phẩm ảo của cái hiểu biết phàm phu không đúng về hợp thể năm uẩn của thân tâm, cho năm uẩn này chính là mình (ngã), của mình (ngã sở). Sống ở đời, hầu như người nào cũng bị ảo ngã, tham sân ảnh hưởng, khiến con người ta hôm nay thủ vai trònày, ngay mai lại đóng vai trò khác.  Đó là vì chúng ta đang sống theo cái vọng tâm, vọng nghiệp, vọng chấp... nay cười mai khóc... nên sầu bi, khổ, ưu, não chiếm ngự... biến chúng ta thành con người vô minh, không sao thoát khỏi bánh xe luân hồi sanh tử!

 

III. KẾT LUẬN

Trở lại chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì?” chúng ta hiểu rằng “Nương thuyền Bát nhã” chính là “Nương vào thuyền Tuệ giác”. Nhưng thuyền Tuệ giác sẽ đưa chúng ta đi đâu, về đâu? Người tu theo đạo Phật hiểu rằng: Nương thuyền Bát Nhã để trở về với bổn tâm, bổn tánh, vốn tự nó thanh tịnh sáng suốt. Đó là tánh biết, là năng lực biết của mình.

Năng lực biết này có công năng soi sáng thực tại, như là tấm gương phản ảnh những gì trước nó. Sự vật như thế nào nó phản ảnh lại như thế. Nó chỉ soi sáng chứ không can thiệp, không chào đón cũng không xua đuỗi, cứ để yên cho thực tại hiện rõ bản chất của chúng, tự sinh tự diệt... từ đó nhận thức đúng đắn bản chất hiện tượng đời sống là Vô thường, Khổ, Vô ngã... nên buông bỏkhông chấp trước bất cứ những thịnh suyvinh nhụcthành bạihạnh phúc hay đau khổ xảy ra trong cuộc đời.

Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác.  Cái biết trực giácnày sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát...

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

An cư  Kiết Xuân 03/02/2024

(Thiền Viện CHÂN NHƯ, Navasota, TX)

 

Tài liệu:

(*)Theo giáo trình giảng dạy lớp Thiền Căn Bản của HT. Thích Thông Triệt.

(**) Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya) Chương V: Năm pháp- (73) Sống Theo Pháp. Bản dịch Việt ngữ của HT. Thích Minh Châu.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1697)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2422)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1855)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1928)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1796)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2172)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2149)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2292)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1787)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2091)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1800)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1784)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1960)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1954)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1607)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1792)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2124)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1874)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2470)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1775)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1778)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1745)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2195)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 2013)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2159)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1695)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2311)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1637)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1928)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1832)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1878)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1720)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2471)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2176)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2119)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1934)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2326)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1887)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1971)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2215)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1730)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1990)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 2003)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2218)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1984)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1827)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1812)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1832)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1951)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2251)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant