Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giác Ngộ Có Nghĩa Là Gì?

14 Tháng Hai 202418:25(Xem: 788)
Giác Ngộ Có Nghĩa Là Gì?

Giác Ngộ Có Nghĩa Là Gì?

Tỳ
 kheo Bodhi
Vô Minh 

 chu tieu2



Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiện ở Ấn Độ. Từ này có nghĩa là “giác ngộ” và những người tìm kiếm tâm linh thường thảo luận về câu hỏi “Đức Phật là ai? Ai đã giác ngộ?” Một lần nọ, một Bà-la-môn lớn tuổi tên là Brahmāyu nghe nói rằng đạo sĩ Gotama, người được đồn đại là Phật, đã đến thị trấn của ông và ông quyết định đến thăm ông. Khi vị Bà-la-môn già đến, Đức Phật đang thảo luậnvới nhiều người. Vì vị Bà-la-môn già này rất nổi tiếng nên khi ông đi vào giữa đám đông, mọi người đều nhường đường cho ông. Đức Phật cũng nhận ra rằng đây là một Bà-la-môn rất được kính trọng, là thầy của nhiều thế hệ đệ tử, nên Ngài yêu cầu Brahmāyu đến ngay phía trước hội chúng và ngồi bên cạnh ông.

Sau đó Brahmāyu nói với Ngài: “Thưa Tôn giả Gotama, tôi muốn hỏi Ngài một số câu hỏi.” Đức Phật mời ông hỏi điều ông đang thắc mắc, và vị Bà-la-môn trình bày các câu của ông bằng một bài kệ bốn dòng, điểm cơ bản của bài kệ là, “Làm sao một người có thể được gọi là Phật, một bậc Giác ngộ?” Đức Phật đáp bằng bài kệ:

 

“Điều cần biết thì ta đã biết;
Cái gì phải bỏ thì ta đã bỏ;
Cái gì cần phát triển thì ta đã phát triển;
Vì vậy, này Bà-la-môn, ta là một vị Phật.”

 

Câu trả lời này cho chúng ta biết một cách rất ngắn gọn ba đặc điểm của một bậc giác ngộ. Đây không chỉ là ba đặc tính của một vị Phật; chúng cũng là ba mục tiêu mà chúng ta hướng tới khi noi theo lời dạy của Đức Phật. Nếu có người hỏi: “Mục đích căn bản của việc quy y Tam Bảo là gì? Mục đích của bạn trong việc tuân theo giới luật là gì? Mục đích của bạn khi thực hành thiền là gì?” câu trả lời của bạn nên có ba điểm giống như thế: biết đầy đủ những gì nên biết; từ bỏ những gì nên từ bỏ; và phát triển những gì cần phát triển. Đây là những mục tiêu của con đường Phật giáovà ba thành tựu đánh dấu sự đạt được giác ngộ.

Nếu bạn quen thuộc với Bài giảng đầu tiên (kinh Chuyển Pháp Luân) của Đức Phật, bạn sẽ nhận rangay rằng ba nhiệm vụ này phù hợp với ba trong Tứ Diệu ĐếChân lý cao quý đầu tiên là chân lýcao quý về dukkha, thường được dịch là đau khổ, bất toại nguyện hoặc căng thẳngNhiệm vụ cần thực hiện liên quan đến chân lý cao cả về đau khổ này là gì? Chân lý cao quý về đau khổ (Khổ đế)là phải được “biết”, biết đầy đủ, hiểu đầy đủ một cách chính xácChân lý cao cả về nguồn gốc hay nguyên nhân của đau khổ (Tập đế) là ái dục, và nhiệm vụ phải thực hiện liên quan đến chân lý này là từ bỏái dục phải được “từ bỏ”. Chân lý cao quý thứ tư, Bát Thánh Đạo (Đạo đế), là chân lý cần phải được “phát triển”. Một chân lý cao quý không được đề cập đến trong câu kệ của Đức Phật là chân lý thứ ba, chân lý cao quý về sự chấm dứt khổ đau (Diệt đế). Điều này cũng có nhiệm vụ riêng của nó: sự chấm dứt đau khổ phải được “nhận ra”. Nhưng khi ba nhiệm vụ kia được hoàn thành, sự chứng ngộ chân lý cao cả về sự chấm dứt khổ đau sẽ tự nhiên theo sau.

Nói rằng nhiệm vụ của chúng ta là “biết điều nên biết” có nghĩa gì? Điều chúng ta phải biết, điều chúng ta phải hiểu, là những gì gần gũi nhất với chúng ta, những gì chúng ta thường coi là bản thânmình. Những gì chúng ta thường gọi là bản thân mình chính là sự phức tạp của cơ thể và tâm trí. Đối với hầu hết chúng ta, từ khi sinh ra cho đến khi chết, tâm trí chúng ta hướng ra bên ngoài, tham gia vào một cuộc tìm kiếm không mệt mỏi về niềm vui và sự thỏa mãn nhục dục, để nâng cao bản thân, để xác nhận ý thức về bản thân của cái tôi-bản sắc (ego-identity). Rất ít người dừng lại và quay lại để cân nhắc câu hỏi: “Cái được gọi là bản thân mình là gì? Cái ‘tôi’ đằng sau sự ám chỉ mà tôi tạo ra cho chính mình là gì?” Tuy nhiên, nếu suy ngẫm một chút, bạn sẽ thấy rằng đây là câu hỏi quan trọng nhất mà chúng ta có thể hỏi. Nếu, từ ngày bạn sinh ra cho đến ngày bạn trút hơi thởcuối cùng, điều tốt nhất bạn có thể làm khi được hỏi: “Bạn là ai? Danh tính của bạn là gì?” là bạn rút bằng lái xe hoặc xuất trình giấy khai sinh mà không thực sự biết mình là ai hay mình là gì, thì bạn đã thực hiện một hành trình khá tồi tệ trong hành trình từ khi sinh ra cho đến khi chết.

Nhiệm vụ của chúng ta khi làm theo lời dạy của Đức Phật là tìm hiểu xem chúng ta gọi cái gì là “tôi”, “chính (tự) tôi”, “cái của tôi”, “tôi là gì”. Chúng ta thường dùng những thuật ngữ này để chỉ một loại thực thể dai dẳng nào đó, một bản ngã, một cái tôi thực chất sở hữu một danh tính thực sự. Nhưng Đức Phật dạy rằng tất cả những ý tưởng như vậy đều là lừa dối. Khi chúng ta xem xét, khi chúng tađiều tra những từ được đề cập đến, “tôi”, “chính tôi” và “bản thân của tôi”, những gì chúng ta tìm thấy chỉ là những thành phần của trải nghiệm thân và tâm. Để hỗ trợ việc điều traĐức Phật đã phân loại gọn gàng những thành phần của trải nghiệm thân và tâm thành năm nhóm. Chúng được gọi là “năm thủ uẩn” bởi vì chúng là những thứ mà chúng ta thường bám vào với ý tưởng, “Cái này là của tôi, đây là cái tôi là, đây là chân ngã của tôi.”

Vì vậychúng ta nhận thấy, đằng sau những khái niệm về “tôi” và “bản ngã”, chỉ có năm uẩn này: sắc uẩn của hình dạng cơ thể, chất liệu cấu thành nên cơ thể chúng tathọ uẩn: cảm giác dễ chịuđau đớn và trung tínhtưởng uẩn: chức năng tinh thần trong việc xác định đặc tính của sự vật, hành động xác định, nhận biết và ghi nhớ; tập hợp các hành uẩn, các chức năng khác nhau liên quan đến tác ý; và thức uẩn: ánh sáng của tánh giác khởi lên trên nền tảng của sáu căn.

Đối với mỗi chúng ta, đây là tổng thể của cái mà chúng ta gọi là bản thân mình. Nhiệm vụ của chúng ta khi làm theo lời dạy của Đức Phật là nhận biết, hiểu được bản chất thực sự của năm uẩnnày. Nhờ đó, chúng ta biết được điều gì tạo nên danh tính thực sự của chúng ta. Từ khi sinh ra, qua tuổi trưởng thành, đến tuổi già và cái chết, toàn bộ quá trình sống này chỉ là sự tiếp nối của năm uẩn gắn kết với nhau như những điều kiện và hiện tượng sinh khởi có điều kiệnThân uẩn hay sắclà nền tảng, và trên cơ sở này, các danh uẩn sinh và diệt. Thông qua thực hành thiền địnhchúng takhảo sát rất sâu sắc, với sự tập trung tinh tếbản chất của năm uẩn này khi chúng xuất hiện từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác. Chúng ta thấy chúng sinh, trụ và hoại diệt, điều này cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về vô thường. Từ sự hiểu biết về vô thường sẽ có cái nhìn sâu sắc về khổ đau, bản chất bất toại nguyện của năm uẩn. Khi đó chúng ta nhận ra rằng năm uẩn hay thay đổi này là không thể tin cậy, không an toàn, không đáng tin cậy, và do đó không thể được coi là tự ngã của chúng ta: chúng trống rỗng hoặc vô ngã.

Mục tiêu thứ hai mà Đức Phật dạy cho chúng ta là “từ bỏ những gì nên từ bỏ”. Những gì cần phảitừ bỏ là những phiền nãoĐức Phật dùng từ kilesas như một thuật ngữ tổng quát bao gồm tất cả các trạng thái tinh thần gây ra đau khổ và bất hạnh trong cuộc sống của chúng ta. Lời dạy của Đức Phật đưa ra một sự nghiên cứu chi tiết về tâm, giúp chúng ta hiểu được tâm hoạt động như thế nào. Nhưng cuộc điều tra này không được thực hiện theo cách không có giá trị mà tâm lý học đương đại có thể mô tả hoạt động của tâm tríTâm lý học Phật giáo xác định các giá trị của nó một cách rõ ràng và sắc nét. Nó rút ra những khác biệt rõ ràng về mặt đạo đức, rút ra chúng mà không do dự hay mơ hồ, bởi vì những khác biệt về mặt đạo đức này có ý nghĩa quan trọng đối với mong muốn đạt được hạnh phúc và tránh đau khổ của chúng ta.

Theo lời dạy của Đức Phật, những hành động phi đạo đức và trạng thái tinh thần bất tịnh không bao giờ có thể mang lại hạnh phúc đích thực và lâu dài. Đúng hơn, những hành động phi đạo đức và những trạng thái tinh thần ô nhiễm chắc chắn sẽ nảy mầm trong bất hạnhđau khổ. Đúng là những trạng thái tâm ô nhiễmđặc biệt là tham lam và thèm muốn, thường đi kèm với lạc thú và thích thúNếu không phải như vậy thì thế giới sẽ tràn ngập những người giác ngộTuy nhiênlạc thú đi kèm với tham ái và tham lam hiện tại chỉ là lớp áo bề ngoài che đậy hạt giống xấu. Khi hạt giống đó nảy mầm và sinh hoa trái, nó sẽ mang lại đau khổ ở đời này, hoặc nếu không ở đời này thì ở những đời sau. Ngược lại, những trạng thái tâm thiện đôi khi có thể đi kèm với nỗi đau hiện tại, bởi vì để phát triển chúng, chúng ta phải đi ngược dòng, đi ngược lại bản chất tự nhiên của tâm. Nhưng khi những trạng thái thiện lành đó đơm hoa kết trái, chắc chắn chúng sẽ dẫn đến hạnh phúcbình an và an lạcnội tâmMột lần nữa, đây là một phần của cùng một luật, luật nhân quả đạo đức.

Những trạng thái tinh thần bất thiện được gọi là kilesas. Từ này có thể được dịch là phiền não vì chúng mang lại đau khổ. Nó cũng có thể được dịch là ô nhiễm vì chúng làm ô uế và làm bại hoạitâm tríĐức Phật đã phân tích bản chất của các phiền não và giải thích một cách hay ho làm thế nào chúng có thể được truy nguyên từ ba “ô nhiễm gốc” là tham, sân và si. Nhiệm vụ của chúng tatrong việc noi theo lời dạy của Đức Phật, trong việc thực hành Giáo Pháp, là khắc phục, loại trừ, từ bỏ các phiền não tham và sân vốn làm phát sinh nhiều nhánh phiền não khác. Nhưng tham lam và sân hận cuối cùng đều xuất phát từ si mê hay vô minh. Và như vậy để loại bỏ mọi phiền nãochúng ta phải loại bỏ vô minh.

Vô minh là cái che đậy năm uẩn, những gì chúng ta gọi là tôi, của tôi và bản thân tôi. Vì vậy, cách khắc phục vô minh hay ảo tưởng là thông qua nhiệm vụ đầu tiên “biết những điều cần biết”. Khi chúng ta biết những điều cần biết, vô minh sẽ biến mất - tham, sân và tất cả các phiền não khác đều biến mất. Tuy nhiên, không thể thực hiện được điều này nếu chỉ có mong muốn làm như vậy. Chúng ta không thể mong đợi chỉ nghĩ rằng: “Tôi muốn biết điều cần biết” và ngay lập tức nó được biết. Đó là lý do tại sao toàn bộ sự thực hành Phật giáo là một quá trình đi trên một con đường(đạo). Món quà vĩ đại mà Đức Phật ban tặng cho thế giới không chỉ đơn giản là một triết lý sâu sắc, không đơn giản là một tâm lý sâu sắc mà là một con đường từng bước thực tế, có hệ thống mà chúng ta có thể trau dồi trong mọi khía cạnh của cuộc sống.

Tu tập theo con đường có nghĩa là “phát triển những gì cần được phát triển”. Đây là dự án thứ ba mà Đức Phật nói đến trong bài kệ bốn dòng của Ngài: “Cái cần được phát triển, thì ta đã phát triển.” Vì thế những gì Đức Phật đã phát triển là những gì chúng ta phải phát triển. Người ta tu tập con đường để “từ bỏ những gì nên từ bỏ”, tức là những phiền não. Và một lần nữa, người ta trau dồi con đường để “biết điều cần biết”, năm uẩn.

Việc phát triển con đường thực hiện điều này như thế nào? Một lần nữa, con đường được cấu trúc theo cách mà nó tiến triển không đột ngột, không đột ngột mà từng bước một để giúp chúng ta leo lên các bậc thang dẫn đến giải thoát giác ngộ tối thượng. Người ta phải bắt đầu bằng cách kiểm soát những biểu hiện thô thiển hơn của phiền não. Người ta thực hiện điều này bằng cách tuân giữ giới luật (giới). Người ta giữ Ngũ Giới hay Bát Giới. Những điều này kiểm soát những biểu hiện thô thiển hơn của phiền não, những phiền não bùng phát dưới hình thức những hành động bất thiện.

Việc giữ giới không chỉ là vấn đề tránh những hành động tiêu cực. Người ta cũng phải trau dồi những hành động tương ứng của mình: những hành động đạo đức, thiện lành. Những điều này tràn ngập tâm trí với những phẩm chất thanh tịnh và thanh lọc. Người ta phải có lòng từ bi và tử tế đối với người khác, trung thực trong cách cư xử với người khác, luôn trung thực trong giao tiếp, có trách nhiệm với gia đình và xã hộithực hiện chánh mạngtinh tấntôn trọng người khác... , kiên nhẫn trong hoàn cảnh khó khăn, khiêm tốn và ngay thẳng. Tất cả những đức tính này dần dần giúp tâm thanh tịnh và làm cho tâm sáng suốttrong sạch và rạng ngời.

Để phát triển những gì cần phải phát triển, chỉ trau dồi đạo đức thôi thì chưa đủ. Người ta phải đi xa hơn và trau dồi sự tập trung (định). Khi chúng ta cố gắng thu thập và tập trung tâm trí, chúng ta bắt đầu hiểu tâm trí mình hoạt động như thế nào. Chúng ta có được cái nhìn sâu sắc về hoạt động của tâm trí mình. Bằng cách hiểu được hoạt động của tâm trí chúng tachúng ta đang dần thay đổi hình dạng của tâm trí. Đầu tiên, chúng ta đang bắt đầu làm suy yếu và xói mòn những phẩm chất bất thiện làm ô nhiễm tâm tríChúng ta đang cạo bỏ lớp đất mà rễ bất thiện đã bám vào. Chúng ta phải nhớ rằng những rễ bất thiện đã nằm sẵn trong tâm chúng ta từ vô thủy. Quá trình này không phải là một quá trình nhanh chóng hay dễ dàng mà đòi hỏi nỗ lực dần dầnkiên trì và tận tâm.

Khi người ta thực hành một cách nhất quáncuối cùng tâm sẽ ổn định vào sự tập trung vững chắc. Nó đạt được những kỹ năng cần thiết để duy trì sự ổn định trên một đối tượng một cách nhất quán, không dao động, và điều này tạo cơ hội cho trí tuệ phát sinh (tuệ). Trí tuệ là phẩm chất thứ ba cần được phát triển. Trí tuệ đến qua sự xem xét, qua sự điều tra.

Chắc chắn rằng trí tuệ không chỉ phát sinh từ sự tập trung thiền định. Ngay cả trong cuộc sống hằng ngày của bạn, khi bạn nghiên cứu những lời dạy của Đức Phậtđặc biệt là những bài kinhquan trọng về phát triển trí tuệ, chẳng hạn như lời dạy về ngũ uẩnduyên khởi và Tứ Diệu Đế, bạn đang tìm hiểu Giáo pháp, và từ đó tạo điều kiện cho trí tuệ. Bạn đang tạo ra một trí tuệ khái niệm đã bắt đầu đào sâu tận gốc rễ của vô minhVì vậy, chỉ bằng cách nghiên cứu giáo lý và suy ngẫm về lời dạy, bạn đã lay chuyển được gốc rễ sâu xa của vô minh.

Nhưng trí tuệ tối thượng là kinh nghiệm. Khi một người đã phát triển tâm định mạnh mẽ, người ta sẽ sử dụng tâm đó để khảo sát năm uẩn. Khi quan sát trải nghiệm của chính mình, người ta sẽ trực tiếp nhìn thấy bản chất thực sự của chúng, vào “đặc tính thực sự của các hiện tượng”. Nói chung, trước tiên người ta thấy sự sinh diệt của năm uẩn. Tức là người ta thấy được sự vô thường của chúng. Người ta thấy rằng vì chúng vô thường nên chúng bất toại nguyện. Chẳng có gì đáng để bám víu vào chúng. Và bởi vì chúng là vô thường và bất toại nguyện, nên người ta không thể đồng nhất với chúng như một bản ngã thực sự hiện hữu. Đây là bản chất trống rỗng hay vô ngã của năm uẩn. Điều này đánh dấu sự phát sinh của trí tuệ minh sát thực sự.

Với trí tuệ minh sát, người ta ngày càng cắt sâu hơn vào gốc rễ của vô minh cho đến khi người ta hiểu đầy đủ bản chất của năm uẩn. Khi làm như vậy, người ta có thể nói rằng mình đã “biết điều nên biết”. Và nhờ biết rõ những gì cần biết, những phiền não “cần được loại bỏ đã bị loại bỏ,” và con đường “cần được phát triển đã được phát triển.” Khi đó người ta nhận ra điều cần được nhận ra, sự diệt trừ đau khổ ngay tại đây và bây giờ. Và, theo lời của Đức Phật, đó là điều tạo nên một bậc giác ngộ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2421)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1853)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1924)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1792)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2168)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2147)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2288)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1779)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2086)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1794)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1776)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1953)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1950)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1605)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1789)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2123)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1871)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2467)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1774)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1775)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1741)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2187)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 2008)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2153)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1688)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2304)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1633)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1927)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1826)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1874)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1717)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2462)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2174)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2115)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1924)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2321)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1883)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1968)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2210)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1726)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1985)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 2001)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2215)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1980)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1825)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1806)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1827)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1944)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2238)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1778)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant