Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mây Tần, mây Hàng...

08 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 5589)
Mây Tần, mây Hàng...


Hàn Dũ (768-823) tự Thoái Chi, người đất Nam Dương, Châu Đăng (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc), làm quan về đời vua Đường Hiếu Tông (806-820).
Theo "Liệt tiên truyện" thuật lại: một hôm Hàn Dũ mở tiệc hạ thọ, có người cháu gọi Hàn là chú tên là Hàn Tương tu tiên trong núi về bái mừng. Hàn Dũ thấy cháu lông bông, không chịu học hành lập chí bèn ngỏ lời khuyên. Tương thưa với chú:
- Cháu có học, nhưng học lối xuất thế.
Hàn không bằng lòng cho là hoang đường. Tương lại thưa:
- Đó là túc căn của cháu, cháu phải theo.
Hàn hỏi:
- Học như thế có ích gì? Kết quả ra sao?
Tương thưa:
- Sự học của cháu mênh mông như biển xanh, bàng bạc như mây trắng, nói khôn xiết. Chỉ biết khi học được tất chiều được ý muốn mọi người. Như chú thích rượu ngon, cháu xin dâng. Chú thèm quả ngọt, cháu cũng có.
Nói xong, Tương lấy nước lã đổ vào bình to để trước án. Một lúc, Tương đem bình ấy rót dâng Hàn và tân khách trong tiệc. Mọi người nâng chén đưa lên ngửi thấy mùi thơm, nhấp vào môi thấy rượu ngon quý. Quả là một thứ rượu tuyệt ngon, trên đời khó kiếm nên lấy làm kỳ lạ.
Tương lại hỏi chú:
- Cháu thấy chú thích ướp trà sen, cháu xin dâng chú loại sen Đông hải để dùng.
Hàn ngạc nhiên:
- Nay cuối đông làm gì có sen. Vả lại sen Đông hải làm sao mà hái về được? Cháu đoạt được cả quyền của Tạo hóa hay sao?
Tương mỉm cười, đoạn lấy vuông lụa phủ lên một lọ cắm bông. Khoảnh khắc mở ra có bó bông sen, hương thơm nức khắp phòng. Bông tuy lớn nhưng cánh lại nhỏ, nhụy trắng toát. Rõ ràng là sen Đông hải.
Sen còn hàm tiếu nhưng chỉ một lúc sau, sen nở lớn. Lạ thay, nhìn vào bông sen lại có hai câu thơ:
Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại,
Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền.
Nghĩa:
Mây ngang Tần Lĩnh nhà đâu tá?
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó qua.
Xem qua hai câu thơ, Hàn nói:
- Hai câu thơ rất hay nhưng không có ý nghĩa gì cả.
Tương thưa:
- Xin chú cứ nghiệm về sau sẽ rõ.
Năm sau, nhân việc Đường Hiến Tông cho rước xương Phật vào cung để thờ, Hàn dân biểu can gián bằng những lời rất mạnh. Xin trích một đoạn:
"... Tự hoàng đế cho đến vua Vũ, vua Thang, vua Văn, vua Vũ đều hưởng thọ lâu dài, trăm họ yên vui mà thuở ấy chưa có Phật vậy. Đến đời vua Minh Đế nhà Hán mới có Phật pháp, về sau cứ loạn lạc mãi, các vua trị vì chẳng được bao lâu. Nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương, nhà Trần cùng nhà Ngụy thờ Phật càng ngày càng thêm kính cẩn thế mà niên đại rất chóng. Duy có vua Vũ Đế nhà Lương ở ngôi được 48 năm, ba kỳ xả thân đi làm tăng, sau bị giặc Hầu Cảnh bức phải chết đói. Thờ Phật cầu phúc mà lại phải vạ. Lấy đó mà xem, thờ Phật không nên tin cũng khá biết vậy ..." (Bản dịch của Lệ Thần Trần Trọng Kim).
Vua Hiến Tông cả giận hạ lịnh đem Hàn ra xử tử. May nhờ tể tướng Bùi Độ và các quan đồng liêu hết sức kêu xin hàn mới thoát khỏi tội chết. Nhà vua liền giáng chức Hàn làm thứ sử ở Triều Châu (nay thuộc tỉnh Quảng Đông), và hạn trong 8 ngày phải có mặt tại sở nhậm. Nếu trễ sẽ chết chém.
Đường từ Trường An (kinh đô nhà Đường) ra đến Triều Châu đến 8 ngàn dặm, đường sá lại gập ghềnh hiểm trở, đèo núi cheo leo. Đi ngựa cả tháng chưa chắc đã đến nơi, thế mà lịnh vua chỉ có 8 ngày. Tuy vậy, Hàn không dám trái lịnh, lập tức cùng hai gia nhân lủi thủi lên đường. Bè bạn sợ vạ lây không ai dám đưa tiễn.
Ba thầy trò Hàn đi suốt ngày đêm, ăn cơm khô, uống nước bầu trên ngựa, không dám nghỉ ngơi quán dịch mà 8 ngày rồi, mới đến Lam Quan.
Lúc bấy giờ đương tiết đông, nơi cửa ải Lam Quan mưa dầm gió bấc, tuyết xuống đầy đường. Những tảng tuyết cao và trơn như mỡ, ngựa không thể nào đi được. Hàn và hai gia nhân đành phải xuống ngựa đi bộ. Chẳng may cả ba lại lạc vào rừng, bốn phía vắng tanh, tìm mãi không thấy lối ra và cũng chẳng gặp ai để hỏi.
Suốt bao nhiêu ngày gian lao như thế làm cho người Hàn sút ốm quá nửa, đầu cơ hồ bạc. Lòng Hàn bàng hoàng chán nản, tự nghĩ vì công danh mà chịu nỗi lao đao. Hàn bấy giờ có ý định bỏ quan vào rừng ẩn náu, thoát vòng cương tỏa.
Ý đã quyết, Hàn định trở lại nhưng không biết đường nào ra. Bốn phía tuyết phủ mịt mù, gió rít từng cơn. Trên đỉnh rặng núi Tần Lĩnh mây trắng lững lờ trôi, cố hương nào biết nơi đâu mà về?
Lúc ấy, Hàn mới chợt nhớ đến hai câu thơ trong bông sen năm trước mà cháu là Hàn Tương đã nhắc Hàn suy nghiệm về sau sẽ biết. Thật là đúng với quang cảnh của Hàn lúc này. Trong lúc tấn thối lưỡng nan, trời mịt mù sắp tối, tuyết đổ xuống càng dầy, gió thổi càng mạnh, mưa bay càng nặng, bỗng nghe như có tiếng gọi văng vẳng sau lưng. Hàn quay lại thì ra Hàn Tương.
Hàn Dũ mừng rỡ, biết cháu đến là có ý cứu mình bèn đem đầu đuôi câu chuyện thuật lại cho Tương nghe. Tương bảo:
Nếu thúc phụ muốn đến Triều Châu ngay bây giờ thì hãy bỏ ngựa đi thuyền. Đêm nay sẽ đến Triều Châu đúng hạn.
Hàn Dũ nghe lời. Tương đưa ba thầy trò ra khỏi rừng. Đến bờ sông Chương thấy sẵn có một chiếc thuyền cắm sào trên băng tuyết. Nước Chương giang đóng thành băng một giải liền như tấm lụa trắng. Tương bảo ba thầy trò Hàn vào trong thuyền ngồi và nhắm mắt lại để Tương đưa đi.
Ba thầy trò nghe theo nhắm chặt mắt lại, tai chỉ nghe tiếng gió thổi vù vù, tiếng thuyền rẽ sóng nước ào ào. Độ một giờ sau, thuyền ngừng lại, tiếng gió, tiếng nước vắng lặng, bấy giờ thầy trò mới mở mắt ra. Thì ra bến Triều Châu ở ngay bên cạnh. Cả ba mừng rỡ lên bờ vào dinh thứ sử Triều Châu nhậm chức.
Nhớ đến chuyện long đong, lận đận, nhứt là hai câu thơ trong bông sen ngày nọ đã tả đúng cảnh lạc loài cô đơn và nỗi nhớ nhà nơi rừng thẳm bên ải Lam Quan và núi Tần Lĩnh nên Hàn Dũ làm một bài thơ, nhan đề "Chế Lam Quan thị điệt Hàn Tương" (Đến Lam Quan bảo cháu Hàn Tương):
Sớm dân bản tấu vào cung khuyết,
Chiều đất Triều Châu bị biếm ra.
Muốn bỏ dị đoan cho đất nước,
Quản chi suy hũ tiếc thân già.
Mây ngang Tần Lĩnh, nhà đâu tá?
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó qua.
Hẳn cháu đến đây lòng đã định,
Chướng giang rồi nhặt nắm xương ta.
(Bản dịch của Bùi Khánh Đản)
Nguyên văn:
Nhất phong triêu tấu cửu hoàng thiên,
Tịch biếm Triều Châu lộ bát thiên.
Bản vi thánh triều trừ tệ sự,
Cảm tương suy hũ tích tàn niên,
Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại,
Tuyết ửng Lam Quan mã bất tiền
Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý
Hão thu ngô cốt Chướng giang biên.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn nói về Từ Hải biệt nàng Kiều, để Kiều nương mình trong gian nhà nhỏ ở Châu Thai, thui thủi trông chờ cùng Từ tái hợp. Trong lúc phòng không lẻ bóng, mỗi khi nhìn thấy giải mây bàng bạc xa xa, nàng Kiều lại nhớ đến gia đình, cha mẹ nên có câu:


Đoái trông muốn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.


"Mây Tần" là lấy ở ý câu thơ trên: "Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại", nghĩa là "Mây kéo phủ núi Tần Lĩnh, biết nhà ta ở đâu". Nghĩa bóng nói nhớ nhà.
Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ Nguyễn Đình Chiểu, đoạn nói về sự ghét thương của ông quán, có câu:

Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa.

cũng do điển tích trên.
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương. Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh", đoạn nói về nàng Kiều lúc vào lầu xanh lần thứ nhứt ở Lâm Truy, gặp Thúc Sinh. Tên lái buôn này nhìn Kiều tắm, cảm hứng mới làm một bài thơ đoạn bảo Kiều họa lại. Kiều từ chối vì nỗi lòng nhớ quê hương, gia đình mà không còn ý nghĩ gì để làm được nữa, có câu:

Lòng còn gửi đám mây Hàng,
Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.

Đời nhà Đường, Địch Nhơn Kiệt được bổ làm Pháp tào Tham quân ở thành Tỉnh Châu. Cha mẹ thì ở đất Hà Dương, xa Tỉnh Châu có mấy ngày đường. Một hôm, Địch lên núi Thái Hàng, nhìn thấy một đám mây trắng bay một mình (bạch vân cô nhi) bèn nói với cả tả hữu: "Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng đó " (Ngô thân xé ư kỳ hạ).
Địch ngậm ngùi giờ lâu, đợi đám mây bay khuất mới về.
Cũng có bản chép là "Mây vàng": "Lòng còn gởi đám mây vàng", do câu thơ cổ: "Thiên thượng hoàng vân ảnh du tử hà thơi qui", nghĩa là: "Trên trời bóng mây vàng, gã xa nhà bao giờ về".
Trong bài "Tôn phu nhân qui Thục" của Tôn Thọ Tường cũng có câu:
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc.
"Mây bạc" cũng có nghĩa nhớ nhà, nhớ cha mẹ như điển tích trên.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5621)
Có lần, bố đi chợ phiên hỏi hai con vợ kế muốn xin quà gì. Một cô xin quần áo đẹp, một cô xin ngọc.
(Xem: 5710)
Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ...
(Xem: 5777)
Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu.
(Xem: 5919)
Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột...
(Xem: 5580)
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.
(Xem: 6208)
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây...
(Xem: 5965)
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống.
(Xem: 5452)
Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng.
(Xem: 5852)
Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con.
(Xem: 5516)
Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi.
(Xem: 5964)
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.
(Xem: 8000)
Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã Lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp.
(Xem: 7278)
Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới...
(Xem: 6463)
Ninh Thích, người nước Vệ đời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không...
(Xem: 14511)
Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...
(Xem: 6996)
Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.
(Xem: 12857)
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 12043)
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...
(Xem: 8785)
Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
(Xem: 14371)
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.
(Xem: 8536)
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế).
(Xem: 6793)
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...
(Xem: 10523)
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.
(Xem: 5962)
Đời nhà Đường (618-907), triều Lý Thái Tông (Lý Thế Dân), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.
(Xem: 10039)
Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".
(Xem: 7144)
Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...
(Xem: 6934)
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.
(Xem: 6084)
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.
(Xem: 6161)
Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
(Xem: 6110)
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.
(Xem: 8322)
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
(Xem: 8803)
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân.
(Xem: 8209)
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...
(Xem: 5838)
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế...
(Xem: 5787)
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
(Xem: 5845)
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong.
(Xem: 5883)
Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân. Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi.
(Xem: 5493)
Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...
(Xem: 5973)
Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 5295)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
(Xem: 6455)
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.
(Xem: 6396)
Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.
(Xem: 6222)
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Nga.
(Xem: 7708)
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...
(Xem: 9417)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...
(Xem: 8747)
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
(Xem: 6860)
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
(Xem: 6501)
"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...
(Xem: 8570)
Nước Việt, năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.
(Xem: 6238)
Năm Nhâm thân (1572), nhà Mạc sai tướng là quận công Lập Bạo đem quân đánh Thuận Quảng là đất chúa Nguyễn ở miền Nam. Lập Bạo huy động cả thảy lục quân tiến vào.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant