Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bảo Kiếm

28 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7280)
Bảo Kiếm

Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới nhờ đúc gươm. Âu Dã Tử vâng lệnh cho đốt lò nung vàng và sắt theo lượng đã tính toán, nhưng đã bao ngày đêm ròng rã mà luyện mãi không thành. Cuối cùng ông ta cùng vợ nhảy vào lò luyện thì sắt mới chảy ra và học trò ông ta luyện thành 5 thanh gươm quý đem dâng lên vua Việt. Năm thanh gươm được đặt tên là: Tử Điển, Trảm Lư, Cự Khuyết, Bàng Dĩnh, Trủy Thủ.

Sau vua nước Việt đem 3 thanh gươm Trảm Lư, Bàng Dĩnh và Trủy Thủ dâng cho vua nước Ngô là Chư Phàn. Vua Ngô ban thanh Trủy Thủ cho con là công Tử Quang. Khi sắp mất thì Chư Phàn vâng theo di ý tiên vương không truyền ngôi cho con mà truyền cho các em Dư Sái, Di Muội lần lượt nối ngôi. Di Muội mất, đáng lẽ ngôi vua về em út là công tử Quý Trát, nhưng Quý Trát không chịu làm vua. Ngôi vua đáng lẽ phải trở về tay con Chư Phàn là công tử Quang, nhưng con Di Muội là Vương Liêu cậy thế lực tự lên làm vua. Công tử Quang bất mãn bèn âm mưu với Ngũ Tử Tư chống Vương Liêu. Ngũ Tử Tư tiến cử Chuyên Chư là tay dũng sĩ có tiếng hiếu thảo với mẹ.


Công tử Quang đem vàng lụa, gạo thịt chu cấp cho Chuyên Chư nuôi mẹ. Chuyên Chư cảm nghĩa nhận hy sinh hành thích Vương Liêu. Vì Vương Liêu mê ăn uống món ngon vật lạ, Chuyên Chư phải qua Thái Hồ học nghề nướng cá. Khi thành nghề, Chuyên Chư trở về. Công tử Quang mời Vương Liêu qua nhà đãi tiệc. Vương Liêu mặc 3 lần áo giáp sắt, mang theo 100 giáp sĩ qua nhà công tử Quang. Tất cả mọi người vào nhà đều bị khám xét kỹ lưỡng. Công tử Quang giao thanh gươm Trủy Thủ cho Chuyên Chư, thanh gươm này rất sắc bén mà lưỡi rất ngắn. Chuyên Chư bèn giấu thanh gươm trong ruột con cá mang vào dâng Vương Liêu. Giáp sĩ khám người Chuyên Chư không thấy vũ khí nên cho vào.


Mang mâm cá tới gần Vương Liêu, Chuyên Chư rút thanh Trủy Thủ ra đâm vào bụng Vương Liêu, thủng qua 3 lần áo giáp sắt, giết chết hắn. Giáp sĩ xông tới bằm nát Chuyên Chư. Công tử Quang phục sẵn quân đánh tan quân Vương Liêu và kéo vào triều xưng làm vua, tức là Hạp Lư. Hạp Lư sai quân đuổi đánh các con của Vương Liêu, sai Yêu Ly làm khổ nhục kế lén đâm chết Khánh Kỵ dứt hậu họa.


Thanh gươm Trủy Thủ giấu trong bụng cá nên được gọi là Ngư Trường.


Hạp Lư sau này sai Can Tương đúc gươm báu. Can Tương là sư đệ cùng thầy với Âu Dã Tử. Can Tương lập lò nấu sắt hoài không chảy, vợ là nàng Mạc Gia nhớ lại câu truyện của vợ chồng Âu Dã Tử bèn ăn chay tắm gội sạch sẽ rồi nhảy vào lò. Can Tương luyện được 2 thanh gươm, đặt tên thanh trống là Can Tương, thanh mái là Mạc Gia, chém sắt đá đều đứt ngọt. Can Tương dâng thanh Mạc Gia cho Hạp Lư, còn mình giữ thanh Can Tương. Ít lâu sau, Hạp Lư nghe nói Can Tương còn giữ 1 thanh gươm báu bèn truyền lệnh phải đem dâng vua. Quân sĩ tới nhà bắt, Can Tương rút thanh Can Tương ra, thanh gươm hóa thành con rồng chở Can Tương bay đi mất.


Nguyễn Công Trứ đã dùng chữ Can Tương để chỉ thanh gươm như trong câu thơ:


"Trong lang miếu ra tài lương đống

Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương"

Qua các cuộc chiến tranh liên miên các thanh gươm báu đều thất lạc. Thanh Trảm Lư lọt vào tay vua Tần, được cẩn thêm viên ngọc và đổi tên là Thái A. Khác với Ngư Trường, thanh Thái A kiếm rất dài, vua Tần luôn đeo bên mình. Khi Thái tử Đan nước Yên sai Kinh Kha đi sứ để hành thích Tần Thủy Hoàng, Kinh Kha rút đoản kiếm giấu trong tấm bản đồ ra đâm vua Tần. Tần Thủy Hoàng tránh được bỏ chạy, Kinh Kha cầm gươm rượt theo. TTH rút gươm nhưng vì thanh Thái A dài quá bị vướng vào bao gươm, TTH trong lúc lúng túng không rút ra được. Các quan trong triều thì không ai được phép mang vũ khí nên chỉ đưa mắt ngó. Nội thị là Triệu Cao bèn nhắc vua Tần cắt bỏ bao gươm, nên TTH rút được gươm chém Kinh Kha. KK đưa gươm đỡ bị Thái A kiếm chém đứt lưỡi gươm sả luôn xuống đùi. Lúc đó giáp sĩ bên ngoài ào vào bắt KK giết. Triệu Cao có công cứu giá được gia phong chức tước, sau lên tới chức Tả Thừa Tướng.


Thanh gươm Thái A sau này được truyền qua các đời vua, đổi tên là Long Tuyền và được coi như là biểu hiệu uy quyền của nhà vua. Tuy nhiên người đời sau vẫn dùng chữ Long Tuyền để chỉ thanh gươm báu. Chẳng hạn như trong bài thơ Cảm Hoài của Đặng Dung sau đây:


Thế sự du du nại lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma

Phan Kế Bính dịch:


Việc đời bối rối tuổi già vay

Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5622)
Có lần, bố đi chợ phiên hỏi hai con vợ kế muốn xin quà gì. Một cô xin quần áo đẹp, một cô xin ngọc.
(Xem: 5711)
Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ...
(Xem: 5782)
Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu.
(Xem: 5919)
Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột...
(Xem: 5582)
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.
(Xem: 6211)
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây...
(Xem: 5972)
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống.
(Xem: 5454)
Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng.
(Xem: 5857)
Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con.
(Xem: 5519)
Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi.
(Xem: 5965)
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.
(Xem: 8002)
Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã Lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp.
(Xem: 6464)
Ninh Thích, người nước Vệ đời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không...
(Xem: 14512)
Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...
(Xem: 6998)
Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.
(Xem: 12860)
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 12043)
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...
(Xem: 8786)
Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
(Xem: 14375)
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.
(Xem: 8539)
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế).
(Xem: 6794)
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...
(Xem: 10524)
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.
(Xem: 5963)
Đời nhà Đường (618-907), triều Lý Thái Tông (Lý Thế Dân), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.
(Xem: 10041)
Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".
(Xem: 7144)
Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...
(Xem: 6935)
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.
(Xem: 6084)
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.
(Xem: 6161)
Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
(Xem: 6111)
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.
(Xem: 8323)
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
(Xem: 8804)
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân.
(Xem: 8210)
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...
(Xem: 5839)
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế...
(Xem: 5789)
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
(Xem: 5846)
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong.
(Xem: 5884)
Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân. Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi.
(Xem: 5495)
Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...
(Xem: 5975)
Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 5297)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
(Xem: 6456)
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.
(Xem: 6397)
Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.
(Xem: 6222)
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Nga.
(Xem: 7708)
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...
(Xem: 9418)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...
(Xem: 8748)
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
(Xem: 6861)
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
(Xem: 5590)
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương.
(Xem: 6501)
"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...
(Xem: 8571)
Nước Việt, năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.
(Xem: 6238)
Năm Nhâm thân (1572), nhà Mạc sai tướng là quận công Lập Bạo đem quân đánh Thuận Quảng là đất chúa Nguyễn ở miền Nam. Lập Bạo huy động cả thảy lục quân tiến vào.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant