Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 1

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 15860)
Phần 1

KINH NHẬT TỤNG CỦA CƯ SĨ

TỲ KHEO TĂNG-ÐỊNH HỢP SOẠN
PL. 2539 - TL. 1995

I - LỄ BÁI TAM BẢO

BÀI THỈNH CHƯ THIÊN

Sagge kāme ca rū pe girisikharatate cantalikkhe vimāne
Dīpe raṭṭthe ca gāme taruvanagahane gehavatthumhi khette
Bhummā cāyantu devā jalathalavisame yakkhagan-dhabbanāgā
Tiṭṭhantā santike yaṃ munivaravacanaṃ sādhavo me suṇantu.

Dhammassavanakālo ayambhadantā.
Dhammassavanakālo ayambhadantā.
Dhammassavanakālo ayambhadantā.

Nghĩa: Xin thỉnh Chư Thiên ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới; Chư Thiên ngự trên đảnh núi núi không liền, hoặc nơi hư không; ngự nơi cồn bãi, đất liền hoặc các châu quận; ngự trên cây cối rừng rậm hoặc ruộng vườn; Chư Dạ Xoa, Càn Thác Bà, cùng Long Vương dưới nước trên bờ hoặc nơi không bằng thẳng, gần đây, xin thỉnh hội họp lại đây. Lời nào là kim ngôn cao thượng của Ðức Thích Ca Mâu Nichúng tôi tụng đây, xin các bậc Hiền Triết nên nghe lời ấy.

Xin các ngài đạo đức, giờ nầy là giờ nên nghe Pháp bảo.
Xin các ngài đạo đức, giờ nầy là giờ nên nghe Pháp bảo.
Xin các ngài đạo đức, giờ nầy là giờ nên nghe Pháp bảo. (lạy)

RATANATTAYAPUJĀ

Imehi dīpadhū pādisakkārehi Buddhaṃ Dhammaṃ Saṅghaṃ abhipū jayāmi mātā-pitādīnaṃ guṇavantānañca mayhañca dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya

LỄ DÂNG CÚNG TAM BẢO

Tôi xin dâng các lễ vật nầy, nhứt là nhang đèn để cúng Phật, Pháp, Tăng, Tam bảo, ngưỡng cầu cho các bậc ân nhân, nhứt là cha mẹ tôi và tôi đều được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự bình an lâu dài. (lạy)

BUDDHARATANAPAṆĀMA

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambudhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.

LỄ BÁI PHẬT BẢO

Tôi xin hết lòng thành kính làm lễ Ðức Bhagavā đó.

Ngài là bậc Arahăng cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (đọc 3 lần, lạy 1 lạy)

Yo sannisinno varabodhimū le māraṃ sasenaṃ mahatiṃ vijeyyo sambodhimāgacchi anantañāno lokuttamotaṃ panamāmi buddhaṃ.

Ðức Phật tham thiền về số tức quan, ngồi trên bồ đoàn, dưới bóng cây Bồ Ðề quý báuđắc thắng toàn bọn Ma Vương mà thành bậc Chánh Ðẳng, Chánh Giác. Ngài là bậc tối thượng hơn cả chúng sanh, tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ Ngài. (lạy)

Ye ca buddhā atītā ca ye ca buddhā anāgatā paccuppannā ca ye buddhā ahaṃ vandāmi sabbadā.

Chư Phật đã thành Chánh Giác trong kiếp quá khứ, Chư Phật sẽ thành Chánh Giác trong kiếp vị lai, Chư Phật đang thành Chánh Giác trong kiếp hiện tại này, tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ Chư Phật trong Tam Thế ấy. (1 lạy)

BUDDHA GUṆA - ÂN ÐỨC PHẬT

Itipi so Bhagavā

1 - Arahaṃ (Ứng Cúng)

Ðức Thế Tôn hiệu Arahaṃ bởi Ngài đã xa lìa các tội lỗi nên tiền khiên tật thân và khẩu của Ngài đều được trọn lành.

2 - Sammā-sambuddho (Chánh Biến Tri)

Ðức Thế Tôn hiệu Sammā Sambuddho bởi Ngài đã thành bậc Chánh Ðẳng, Chánh Giác, tự Ngài ngộ lấy không thầy chỉ dạy.

3 - Vijjācarana-sampanno (Minh Hạnh Túc)

Ðức Thế Tôn hiệu Vijjācaranasampanno bởi Ngài toàn đắc 3 cái giác, 8 cái giác và 15 cái hạnh.

4 - Sugato (Thiện Thệ)

Ðức Thế Tôn hiệu Sugato bởi Ngài đã ngự đến nơi an lạc, bất sanh, bất diệt. Ðại Niết Bàn:

5 - Lokavidū (Thế Gian Giải)

Ðức Thế Tôn hiệu Lokavidū , bởi Ngài đã thông suốt Tam Giới.

6 - Anuttaro (Vô Thượng Sĩ)

Ðức Thế Tôn hiệu Anuttaro bởi Ngài có đức hạnh không ai bì.

7 - Purisadammasārathi (Ðiều Ngự Trượng Phu)

Ðức Thế Tôn hiệu Purisadammasārathi bởi Ngài là đấng tế độ những người hữu duyên nên tế độ.

8 - Satthā-devamanus-sānaṃ (Thiên Nhơn Sư)

Ðức Thế Tôn hiệu Satthādevama-nussānaṃ bởi Ngài là thầy cả Chư Thiênnhân loại.

9 - Buddho (Phật)

Ðức Thế Tôn hiệu Buddho bởi Ngài Giác Ngộ lý Tứ Diệu Ðế và đem ra giáo hóa chúng sanh cùng biết với.

10 - Bhagavāti (Thế Tôn)

Ðức Thế Tôn hiệu Bhagavā bởi Ngài đã siêu xuất Tam Giới tức là Ngài không còn luân hồi lại nữa. (lạy)

BUDDHA ATTAPAṬIÑÑĀ

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ
Bbuddho me saraṇaṃ varaṃ
Etena saccavajjena
Hotu me jayamaṅgalam.

LỜI BỐ CÁO QUY Y PHẬT BẢO

Chẳng có chi đáng cho tôi phải nương theo chỉ có Ðức Phật là quí báu, nên tôi phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho tôi, y như lời chơn thật này. (lạy)

BUDDHA KHAMĀPANA

Uttamaṅgena vandehaṃ
Pādapaṃ suṃ varuttamaṃ
Buddhe yo khalito doso
Buddho khamatu taṃ mamaṃ
.

SÁM HỐI PHẬT BẢO

Tôi xin hết lòng thành kính cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Ðức Phật, là Ðấng Chí Tôn Chí Thánh.

Các tội lỗi mà tôi đã vô ý phạm đến Phật Bảo, cúi xin Phật Bảotội lỗi ấy cho tôi. (lạy)

DHAMMARATANAPANĀMA

Aṭṭhaṅgikāriyapatho janānaṃ
Mokkhappavesāya ujū ca maggo
Dhammo ayaṃ santikaro paṇīto
Nīyāniko taṃ panamāmi dhammaṃ .

LỄ BÁI PHÁP BẢO

Các Pháp đúng theo đạo Bát Chánh, là con đàng đi của bậc Thánh Nhân, là con đàng chánh, dẫn người hữu chí nhập Niết Bàn được. Pháp Bảo là Pháp trừ diệt các sự lao khổ và các điều phiền não, là Pháp chỉ dẫn chúng sanh thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi, tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ Pháp ấy. (lạy)

Ye ca dhammā atītā ca
Ye ca dhammā anāgatā
Paccuppannā ca ye dhammā
Ahaṃ vandāmi sabbadā.

Các Pháp của Chư Phật đã có trong kiếp quá khứ. Các Pháp của Chư Phật sẽ có trong kiếp vị lai. Các Pháp của chư Phật đang giáo truyền trong kiếp hiện tại nầy. Tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ các Pháp trong tam thế ấy. (lạy)

DHAMMA GUṆA - ÂN ÐỨC PHÁP BẢO

1 - Svākkhāto Bhagavatā.

nghĩa là tam tạng Pháp Bảo của Ðức Thế Tôn đã khẩu truyền y theo chánh pháp.

2 - Dhammo.

là Pháp Thánh có 9 hạng: "4 đạo 4 quả và 1 Niết Bàn".

3 - Sandiṭṭhiko.

là Pháp mà Chư Thánh đã thấy chắc, biết chắc bởi nhờ kiến tánh, chẳng phải vì nghe, vì tin kẻ nào khác, nghĩa là tự mình thấy rõ chơn lý.

4 - Akāliko.

Pháp độ cho đắc quả không chờ ngày giờ, là khi nào đắc đạo thì đắc quả không chậm trễ.

5 - Ehipassiko.

là Pháp của Chư Thánh đã đắc quả rồi, có thể ứng hóa cho kẻ khác biết được.

6 - Opanayiko.

là Pháp của Chư Thánh đã có trong mình do nhờ phép Thiền Ðịnh.

7 - Paccattaṃ veditabbo viññū hīti.

là Pháp mà các hàng trí tuệ nhất là bậc Thượng Trí được biết, được thấy tự nơi tâm. (lạy)

DHAMMA ATTAPAṬIÑÑĀ

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ
Etena saccavajjena
Hotu me jayamaṅgalaṃ .

LỜI BỐ CÁO QUY Y PHÁP BẢO

Chẳng có chi đáng cho tôi phải nương theo chỉ có Pháp Bảo là quí báu, nên tôi phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho tôi, y như lời chơn thật nầy. (lạy)

DHAMMA KHAMĀPANA

Uttamaṅgena vandehaṃ
Dhammañca duvidhaṃ varaṃ
Dhamme yo khalito doso
Dhammo khamatu taṃ mamaṃ .

SÁM HỐI PHÁP BẢO

Tôi xin hết lòng thành kính, cúi đầu làm lễ hai hạng Pháp Bảo là Pháp học và Pháp hành. Các tội lỗi mà tôi đã vô ý phạm đến Pháp Bảo, cúi xin Pháp Bảotội lỗi ấy cho tôi. (lạy)

SAṄGHARATANAPANĀMA

Saṅgho visuddho varadakkhiṇeyyo
Santindriyo sabbamalappahīno
Guṇehinekehi samiddhipatto
Anāsavo taṃ panamāmi Saṅghaṃ .

LỄ BÁI TĂNG BẢO

Chư Thánh Tăng đã được trong sạch quí báu là bậc đáng cho người dâng lễ cúng dường, vì lục căn của các Ngài đã thanh tịnh, lòng tham muốn đã dứt trừ, là Tăng đã thoát ly trần tục, tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ chư Thánh Tăng ấy. (lạy)

Ye ca saṅghā atītā ca ye ca saṅghā anāgatā paccuppannā ca ye saṅghā ahaṃ vandāmi sabbadā.

Chư Tăng đã đắc đạo cùng quả trong kiếp quá khứ. Chư Tăng sẽ đắc đạo cùng quả trong kiếp vị lai. Chư Tăng đang đắc đạo cùng quả trong kiếp hiện tại này, tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ Chư Thánh Tăng trong Tam Thế ấy. (lạy)

SAṄGHA GUṆA - ÂN ÐỨC TĂNG BẢO

1 - Suppaṭipanno bhagavato sāva-kasaṅgho.

Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật. Các Ngài đã tu hành chín chắn y theo chánh pháp.

2 - Ujupaṭipanno bhagavato sāva-kasaṅgho.

Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu hành chín chắn y theo Thánh Pháp.

3 - Ñayapaṭipanno bhagavato sāva-kasaṅgho.

Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật, các Ngài tu hành để Giác Ngộ Niết Bàn, là nơi an lạc dứt khỏi các sự thống khổ.

4 - Sāmīcipaṭipanno bhagavato sāva-kasaṅgho.

Tăng là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu theo phép Giới Ðịnh Tuệ.

5 - Yadidaṃ cattāri purisa-yugāni.

Tăng nếu đếm đôi thì có bốn bậc:

Tăng đã đắc đạo cùng quả Tu Ðà Huờn,
Tăng đã đắc đạo cùng quả Tư Ðà Hàm,
Tăng đã đắc đạo cùng quả A Na Hàm,
Tăng đã đắc đạo cùng quả A La Hán,

6 - Aṭṭha purisa-puggalā

Tăng nếu đếm chiếc thì có tám bậc:

Tăng đã đắc đạo Tu Ðà Hườn,
Tăng đã đắc đạo quả Tu Ðà Hườn,
Tăng đã đắc đạo Tư Ðà Hàm,
Tăng đã đắc quả Tư Ðà Hàm,
Tăng đã đắc đạo A Na Hàm,
Tăng đã đắc quả A Na Hàm,
Tăng đã đắc đạo A La Hán,
Tăng đã đắc quả A La Hán,

7 - Esa Bhagavato sāvakasaṅgho.

Chư Tăng ấy là các bậc Thinh Văn đệ tử Phật.

8 - Āhuneyyo.

Các Ngài đáng thọ lãnh bốn món vật dụng của tín thí, ở phương xa đem đến dâng cúng cho những người có giới hạnh.

9 - Pāhuneyyo.

Các Ngài đáng thọ lãnh của tín thí, mà họ dành để cho thân quyến cùng bầu bạn ở các nơi, nhưng họ lại đem đến dâng cúng cho các Ngài.

10 - Dakkhiṇeyyo.

Các Ngài đáng thọ lãnh của Tín thí, tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.

11 - Añjalikaranīyo.

Các Ngài đáng cho chúng sanh lễ bái.

12 - Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokas-sāti.

Các Ngài là phước điền của chúng sanh không đâu bì kịp. (lạy)

SAṄA ATTAPATIÑÑĀ

Natthi me saranaṃ aññaṃ
Saṅgho me saraṇam varaṃ
Etena saccavajjena
Hotu me jayamaṅgalaṃ .

LỜI BỐ CÁO QUY Y TĂNG BẢO

Chẳng có chi đáng cho tôi phải nương theo, chỉ có đức Tăng là quí báu, nên tôi phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho tôi y như lời chân thật này. (lạy)

SAṄGHA KHAMĀPANA

Uttamaṅgena vandehaṃ
Saṅghañca duvidhottamaṃ
Saṅghe yo khalito doso
Saṅgho khamatu taṃ mamaṃ .

SÁM HỐI TĂNG BẢO

Tôi xin hết lòng thành kính, cúi đầu làm lễ hai bậc Tăng BảoPhàm TăngThánh Tăng, các tội lỗi mà tôi đã vô ý phạm đến Tăng Bảo, cúi xin Tăng Bảotội lỗi ấy cho tôi. (lạy)

SAMBUDDHE

1- Sambuddhe aṭṭhavīsañ ca
dvādasañ ca sahassake
pañcasatasahassāni
namāmi sirasā ahaṃ .

Tesaṃ dhammañca saṅghañca
ādarena namāmihaṃ
namakārānubhāvena
hantvā sabbe upaddave
anekā antarāyāpi
vinassantu asesato.

2- Sambuddhe pañca paññāsañca
catuvīsa tisahassake
dasasatasahassāni
namāmi sirasā ahaṃ .

Tesaṃ dhammañca saṅghañca
ādarena namāmihaṃ
namakārānubhāvena
hantvā sabbe upaddave
anekā antarāyā pi
vinassantu asesato.

3- Sambuddhe navuttarasate
aṭṭhacattālī-sasahassake
vīsatisatasahassāni
namāmi sirasā ahaṃ .

Tesaṃ dhammañca saṅghañca
ādarena namāmihaṃ
namakārānubhāvena
hantvā sabbe upaddave
anekā antarāyā pi
vinassantu asesato.

LỄ TAM THẾ PHẬT

1- Tôi xin hết lòng thành kính, làm lễ 28 vị Chánh biến tri, 12 ngàn vị Chánh biến tri và 500 ngàn vị Chánh biến tri.

Tôi xin hết lòng thành kính, làm lễ Pháp bảoTăng bảo của các vị Chánh biến tri ấy.

Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực các bậc Chánh biến tri mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận. (lạy)

2- Tôi xin hết lòng thành kính làm lễ 55 vị Chánh biến tri, 24 ngàn vị Chánh biến tri và 1 triệu vị Chánh biến tri.

Tôi xin hết lòng thành kính làm lễ Pháp bảoTăng bảo của các vị Chánh biến tri ấy.

Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực các bậc Chánh biến tri mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận. (lạy)

3- Tôi xin hết lòng thành kính làm lễ 109 vị Chánh biến tri, 48 ngàn vị Chánh biến tri và 2 triệu vị Chánh biến tri.

Tôi xin hết lòng thành kính làm lễ pháp bảoTăng bảo của các vị Chánh biến tri ấy.

Do sự lễ bái cúng dường, xin nhờ oai lực của bậc Chánh biến tri mà những điều rủi ro và sự tai hại thảy đều diệt tận. (lạy)

LỄ BÁI TAM BẢO TÓM TẮT CHUNG VỚI SỰ CÚNG DƯỜNG LỄ VẬT

Namo tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa. (Tụng 3 lần, lạy 1 lạy)

1. Itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā-devamanussānaṃ buddho bhagavāti.

Taṃ arahatādiguṇasaṃ yuttaṃ bud-dhaṃ sirasā namāmi.

Tañca buddhaṃ imehi sakkārehi abhi-pū jayāmi.

Tôi xin thành kính cúi đầu làm lễ Ðức Chánh Biến Tri, Ngài có đầy đủ các đức, nhất là đức Araham.

Tôi xin thành kính cúng dường Ðức Chánh đẳng Chánh giác bằng các lễ vật này. (lạy)

2. Svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opanayiko paccattaṃ veditabbo viññū hīti.

Taṃ svākkhātādiguṇasaṃ yuttaṃ dhammaṃ sirasā namāmi.

Tañca dhammaṃ imehi sakkārehi abhipū jayāmi.

Tôi xin thành kính cúi đầu làm lễ Pháp Bảo có đầy đủ các đức, nhất là đức Svākkhāto.

Tôi xin thành kính cúng dường Pháp Bảo bằng các lễ vật này. (lạy)

3- Suppaṭipanno bhagavato sāvaka-saṅgho ujupaṭipanno bhagavato sāvaka-saṅgho ñāyapaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa bhagavato sāvaka-saṅgho āhuneyyo pāhuneyyo dakkhineyyo añjalikaraneyyo anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā ' ti.

Taṃ supaṭipannatādiguṇasamyuttaṃ saṅghaṃ sirasā namāmi.

Tañca saṅghaṃ imehi sakkārehi abhi-pū jayāmi.

Tôi xin thành kính cúi đầu làm lễ đức Tăng có đầy đủ các đức, nhứt là đức Supatipanno.

Tôi xin thành kính cúng dường đức Tăng bằng các lễ vật này. (lạy)

LỄ BÁI XÁ LỢI

Vandāmi cetiyaṃ sabbaṃ
sabbaṭ-ṭhāmesupatiṭṭhitaṃ
sārīrikadhātu mahābodhiṃ
buddharū paṃ sakalaṃ sadā.

Nghĩa:

Tôi xin thành kính làm lễ tất cả Bảo Tháp, ngọc Xá Lợi, đại thọ Bồ Ðề và kim thân Phật đã tạo thờ trong khắp mọi nơi.

Con xin lễ bái các phần,
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật đà,
Bồ đề khắp cõi Sa bà,
Luôn luôn thành kính hương hoa cúng dường.

DÂNG HOA CÚNG PHẬT

Vaṇṇagandha - gunopetaṃ
Etaṃ kusuma santatiṃ
Pū jayāmi munindassa
Siripāda - sanoruhe.

Pūjemi Buddhaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.

Pūjemi Dhammaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.


Pūjemi Saṅghaṃ kusumenanena
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ.

Nghĩa:

Chúng con xin cúng dường "Phật bảo",
Bao cành hoa toàn hảo hiến dâng.
Cầu mong thoát chốn mê trần,
Níp bàn chóng đến hầu gần Thế Tôn.
Hoa này sẽ bất tồn dương cảnh,
Ủ rủ dần hình ảnh còn chi,
Chúng con phải chịu thế ni!
Xác thân ngũ uẩn chuyển di bất thường!

Chúng con xin cúng dường "Pháp bảo",
Bao cành hoa toàn hảo hiến dâng.
Cầu mong thoát chốn mê trần,
Níp bàn chóng đến hầu gần Thế Tôn.
Hoa này sẽ bất tồn dương cảnh,
Ủ rủ dần hình ảnh còn chi,
Chúng con phải chịu thế ni!
Xác thân ngũ uẩn chuyển di bất thường!

Chúng con xin cúng dường "Tăng bảo",
Bao cành hoa toàn hảo hiến dâng.
Cầu mong thoát chốn mê trần,
Níp bàn chóng đến hầu gần Thế Tôn.
Hoa này sẽ bất tồn dương cảnh,
Ủ rủ dần hình ảnh còn chi,
Chúng con phải chịu thế ni!
Xác thân ngũ uẩn chuyển di bất thường!

*

Dâng hoa cúng đến "Phật-đà",
Nguyện mau giải thoát sanh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ ứa sầu,
Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn.

Dâng hoa cúng đến "Đạt-ma",
Nguyện mau giải thoát sanh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ ứa sầu,
Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn.

Dâng hoa cúng đến "Tăng-già",
Nguyện mau giải thoát sanh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ ứa sầu,
Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn.

[*] Phật-đà: Buddhaṃ; Ðạt-ma: Dhammaṃ; Tăng-già: Sanghaṃ

KINH HỒI HƯỚNG (vắn tắt)

Idaṃ no (vo) nātīnaṃ hontu sukhitā hontu nātayo. (3 lần)

[Chư Tăng tụng: Vo - Phật tử tụng: No]

Nghĩa:

Do sự phước báu mà chúng tôi đã trong sạch làm đây xin hồi hướng đến thân bằng quyến thuộc đã quá vãng, cầu mong cho các vị ấy hằng được yên vui. (3 lần)

KỆ TỤNG TRƯỚC CÁC THÁP THỜ XÁ LỢI PHẬT

Trước Xá Lợi uy linh lẫm liệt,
Dâng nén hương dạ nhiệt tín thành,
Cúng dường Phật Tổ cha lành,
Ngày xưa di tích Phật danh Cồ Ðàm.
Ðức từ bi chỉ đàng giác ngạn,
Ơn cứu khổ độ nạn mê tân,
Trời người thuần gội nguồn ân,
Duyên may được hưởng đôi phân chánh truyền
Phát tâm lành cần chuyên giữ đạo
Nguyện noi theo tôn giáo Thích Ca.
Lo phần tự giác, giác tha,
Y theo bổn hạnh Phật Ðà khi xưa:
Chốn rừng già muối dưa đạm bạc,
Giữa tuyết sương đói khát bao nài,
Chẳng màng lao khổ đắng cay,
Quyết lòng tìm đạo duyên may độ đời.
Dưới cội cây tứ thời tĩnh tọa,
Trên Bồ đoàn phấn tỏa tâm minh.
Thoạt nhiên ngộ đạo tự mình,
Ðắc thành Phật quả vô sinh Niết Bàn.
Rồi từ đó mở mang Giáo Pháp,
Bốn mươi lăm hạ giáp vẹn toàn,
Châu du cùng khắp bốn phang,
Hoằng khai Phật Ðạo chỉ đàng vô sanh,
Vườn Kusinara cha lành viên tịch,
Ngọc Xá Lợi di tích thế gian.
Bảy đoạn xương lớn huy hoàng,
Xương trán răng nhọn lại còn xương vai,
Lửa Chư Thiên hỏa đài phát cháy,
Không rã tan quả thấy nhiệm mầu.

Lại còn Xá Lợi đủ màu,
Chia ra ba cỡ khác nhau cân lường:
Chừng năm cân chỉ bằng hột đậu,
Ánh chiếu ngời huỳnh ngọc kim cương.
Cỡ hai đồng chạn khác thường
Lớn bằng hột thóc đã lường sáu cân,
Pha ly màu sáng trong ngần
Thủy xoàn ngọc quí trong trần nào hơn.
Cỡ ba hột cải trộng trơn,
Năm cân ngọc điệp trắng ngần như hoa [1]
Chúng sanh khắp cõi Sa Bà.
Dễ nào gặp được để mà suy tôn.
Duyên lành đưa đến điện môn.
Cúng dường Xá Lợi Thế Tôn di truyền:
Nhứt tâm thệ nguyện qui nguyên,
Ngưỡng cầu Phật Tổ chứng miên lòng thành.

Ðầu tiên tám nước phân tranh,
Công phân Xá Lợi sử sanh ghi rành;
Ðền thờ tiêu biểu: đức lành;
Tám nơi công cộng đô thành quốc vương [2]
Môn sanh từ khắp bốn phương.
Mai chiều chiêm bái cúng dường NhưLai.
Chúng con cảm mến dạ hoài,
Hướng chừng Thánh tháp Phật Ðài suy tôn.
Răng nhọn bốn cái di tồn,
Bốn nơi tạo tháp kiền khôn lưu đời:
Một là Ðạo lợi cung trời, [3]
Hai là Thánh địa đương thời Lăn Ca [3]
Xứ Ganh Tha Rá thứ ba [4]
Bốn là Thủy Ðiện nguy nga Chúa Rồng.[5]
Chúng con ái mộ tâm đồng,
Cúng dường Xá Lợi kim thân Phật Ðà.
Phạm Thiên thượng giới một tòa,
Xương vai bên tả cùng là Tam Y,
Ðền thờ cao vọi cực kỳ [6]
Chúng con lễ bái thiên uy tháp này.

Tuần hoàn tuế nguyệt chuyển xoay,
Cỗ sơ tám tháp [7] hằng ngày mòn hư,
Hai trăm mười tám năm dư,
Nhờ vua A Dục tâm từ sùng hưng.
Tám phần Xá Lợi quân phân,
Tám muôn bốn ngàn tạo tân pháp thờ.
Ngàn năm muôn kiếp một giờ,
Trước đền Xá Lợi ước mơ phỉ nguyền.
Phần hương lễ bái điện tiền,
Cúng dường Xá Lợi gieo duyên Niết Bàn.
Nguyện cầu trăm họ bốn phương,
Thoát vòng tai ách, hưởng an thanh bình
Cầu cho tất cả chúng sinh,
Ðồng nhau tu Phật, đệ huynh một nhà.

[1] Như hoa Bakula.
[2] Tám kinh đô: Rajagaha, Vesàli, Alakappaka, Kapilavastu, Ramagrama, Vetthadipaka, Paveyyaka, Kusinara.
[3] Thờ răng nhọn phía trên bên hữu.
[4] Thờ răng nhọn phía trên bên tả.
[5] Thờ răng nhọn ở phía dưới bên tả - Xứ Ganthararattha.
[6] cao 12 do tuần
[7] Tám tháp đầu tiên, trong tám đô thành kể trên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11669)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11995)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11138)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11384)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12097)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12589)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10799)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18028)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11754)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9979)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10212)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12384)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15391)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11274)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14361)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12144)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15411)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12039)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12450)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11224)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12128)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10657)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12579)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13204)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14874)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12735)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16613)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19716)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13145)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12690)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12297)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11902)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10931)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13563)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11985)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11879)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11668)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12793)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14562)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12660)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15699)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13657)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12931)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9909)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18045)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11213)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9111)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12217)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13089)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10342)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12231)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15347)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16646)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12252)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11517)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14304)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19748)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14199)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24656)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10721)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant