Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vấn Đề Chủng Tánh/ Giai Cấp Tối Thắng Qua Văn Hệ Nikaya và A Hàm

01 Tháng Bảy 201515:15(Xem: 6220)
Vấn Đề Chủng Tánh/ Giai Cấp Tối Thắng Qua Văn Hệ Nikaya và A Hàm
VỀ VẤN ĐỀ CHỦNG TÁNH/GIAI CẤP TỐI THẮNG
QUA VĂN HỆ NIKĀYA VÀ A-HÀM

Phước Nguyên
*******

I.  Ý NGHĨA TỪ CHỦNG TÁNH TRONG KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA
Trước khi truy nguyên ý nghĩa từ chúng tánh trong văn hệ Nikāya Pāli và A-hàm, chúng ta đi qua ý nghĩa của nó trong Kinh điển Đại-thừa, việc làm này cũng là điều thường thấy trong cách thức trình bày, để có thể có được quan điểm xuyên suốt về vấn đề, mà không bị vướng mắc ở nơi những phạm trù tư tưởng hay khái niệm. Ở đây, chúng ta tạm mượn kinh Nhập Lăng-già, thuộc kinh điển Đại-thừa, để làm cơ sở khi nói về ý nghĩa này.
Kinh Saddharmalakāvatārasūtram, Hán dịch tương đương: Đại Thừa Nhập Lăng Già kinh[1], đức Thế Tôn dạy về chủng tánh như sau:
pañca abhisamayagotrāi ... śrāvakayānābhisamayagotra, pratyekabuddha-, tathāgata, anitya-taikataragotra agotram[2]”: “Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa[3]: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
Các hữu tình đã được nói là bản lai có năm chủng tánh khác nhau do đó cần phải xác định có chủng tử pháp nhĩ, không phát sinh do bởi huân tập. Tại sao ? Nhập Lăng-già 2[4] nói rõ, về chủng tánh của năm thừa do hiện chứng:
Punar mahāmate pañcābhisamayagotrāi. katamāni pañca? yad uta śrāvakayānābhi-samayagotra, pratyekabuddhayāna-, tathāgatayāna-, aniyataikataragotra, agotra”:  Này Đại Huệ, có năm chủng tánh được hiện chứng. Đó là, chủng tánh hiện chứng Thanh văn thừa, chủng tánh hiện chứng Độc giác thừa, chủng tánh hiện chứng Như lai thừa, chủng tánh bất định, và không chủng tánh.
Giải thích vấn đề này của kinh Lăng già ta có thể dẫn ở Vô thượng y kinh 1[5], hay Thiện dũng mãnh bát-nhã 1 tức Đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, quyển 593, hội thứ 16[6]Hạng chủng tánh bất định, là không nhất định sẽ chứng thừa nào, mà tùy theo điều kiện ban đầu; gặp nhân duyên với thừa nào thì phát tâmthành tựu cứu cánh trong thừa đó. Hạng vô chủng tánh, mà kinh gọi là nhất-xiển-đề, là hạng không có chủng tánh Niết-bàn”.
Cũng theo kinh Lăng-già: “Nhất-xiển-đề là hạng không có Niết-bàn tánh. Hạng này không có tín tâm để tin rằng có sự giải thoát nên không hề có ý hướng về sự nhập Niết-bàn”[7].
Nhóm chủng tánh này cũng được chia thành hai nhánh: Nhánh đoạn thiện căn do không có một chút gốc rễ thiện gì để có thể tin tưởnggiải thoát và Niết-bàn. Nhánh thứ hai, Bồ-tát do đại bi nên vĩnh viễn không hề có ý hướng Niết-bàn[8].
Như vậy, tóm lại các loại chủng tánh được kể trong kinh Lăng-già gồm: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
Ngoài ý nghĩa từ chủng tánh được dùng ở đây, để chỉ cho năm loại chủng tánh đã kể trên, trong văn hệ Pāli và A-hàm từ Sanskrit gotra: chủng tánh, Pāli gọi là gotta: chủng tộc còn được dùng với ý nghĩa khác, tức để chỉ cho bốn chủng tánh đó là: Sát-lị, Bà-la-môn, Cư sỹ và Thủ-đà-la[9].

II. CHỦNG TÁNH/GIAI CẤP NÀO LÀ TỐI THẮNG?
Một thời, khi Thế Tôn cư trú tại thành Xá-vệ, trong vườn Thanh Tín, giảng đường Lộc Mẫu, cùng đại chúng Tỳ-kheo. Bấy giờ ngài nói có bốn chủng tánh như sau:
Này Bà-tất-tra, có bốn chủng tánh, trong đó có cả người thiện lẫn người ác; có kẻ được người trí khen, cũng có kể bị người trí chê. Bốn chủng tánh ấy là: Sátlị, Bà-la-môn, Cư sỹ, Thủ-đà-la”[10].
Và khi đề cập đến chủng tánh hay chủng tộc nào là tối thượng trong bốn chủng tánh trên, đức Thế Tôn đã từng dạy:
 “Khattiyo seṭṭho janetasmi, ye gottapaisārino”[11]:
“Những ai tin vào chủng tộc, thì Sát-lợi là tối tôn”.
Từ chủng tộc Pāli gọi là gotta, nó cũng được hiểu là giai cấp, tầng lớp, tầng bậc, từ Sanskrit tương đương ở đây là gotra: chủng tánh, ở đây cũng hiểu là chủng tử (bīja), là giới (dhātu), là tánh (prakti).
Như vậy, chúng ta lần lượt đi vào một số kinh văn, để hiểu rõ hơn về vấn đề Thế Tôn dạy về chủng tánh hay giai cấp tối thượng như thế nào.
*Kinh Tiu Duyên[12]:
Lúc bấy giờ, Thế Tôn cư trú tại Xá-vệ, trong vườn Thanh Tín, giảng đường Lộc Mẫu, cùng đại chúng Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị.
Tại đây, Thế Tôn nói về giai cấp bậc nhất, qua bài kệ sau:
"Trong đời, Sát-lị nhất
Với ai y chủng tánh
Minh Hành thành đầy đủ
Bậc nhất trong Trời-Người"[13]Nguyên văn ở trong Đại Tạng Kinh 1, Trường A-hàm có khác biệt một chút như vầy:
“ 生中剎 利勝
能捨種姓去"[14]:
“Trong đời Sát-lị là nhất;
Ai hay rời bỏ chủng tánh.”
Câu này Pāli có tương đương: “khattiyo seṭṭho janetasmi, ye gottapaisārino”: với những ai y chỉ chủng tánh (giai cấp), sát-lị là bậc nhất trong loài thọ sinh. 
Bản Hán có lẽ đọc là gottanissārino: hiểu thành 能捨種姓去[15]: những ai rời bỏ chủng tánh. Cách hiểu này không phù hợp với nội dung toàn kinh và đoạn dịch Hán bài kệ tương tự trong kinh A-ma-trú sẽ dẫn ở bên dưới, cũng ở Trường A-hàm. Nên căn cứ theo đây có thể tạm hiệu chỉnh lại là: Với ai y chủng tánh. Như vậy, phù hợp với Pāli và toàn bộ tư tưởng với những kinh văn tương đương.
*Kinh A-ma-trú[16]
Một thời, đức Thế-Tôn du hành nước Câu-tát-la, cùng đại chúng Tỳ-kheo, rồi đến Y-xa-năng-già-la, thôn của một người Bà-la-môn ở Câu-tát-la. Ngài nghỉ đêm tại rừng Y-xa. Tại đây, có một vị Phạm Thiên tự mình nói bài kệ rằng:
Trong đời, Sát-lị nhất,
Với ai y chủng tánh
Minh, Hành thảy đầy đủ,
Tối thắng giữa Trời Người”[17].
Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo Ma nạp đệ tử 摩納弟子 (Pāli. avo antevāsi) tức thiếu niên đệ tử người học trò hầu cận trẻ tuổi rằng:
“Phạm Thiên nói bài kệ này, thật là nói khéo chớ không phải không khéo. Ta công nhận như vậy. Vì sao? Nay, như Ta, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chính Giác, cũng nói nghĩa đó:
Trong đời, Sát-lị nhất,
Với ai y chủng tánh.
Minh, Hành thảy đầy đủ,
Tối thắng giữa Trời Người"[18]*Kinh Khởi Thế Nhân Bổn, Trường Bộ Kinh[19].
Một thời Thế Tôn trú tại Xá-vệ, Thành Tín Viên lâm, ở lầu của Lộc Mẫu Giảng đường. Tại đây, Thế Tôn dạy Vāsettha về giai cấp bậc nhất như sau:
"Này Vāsettha, vì rằng nếu có ai trong bốn giai cấp là một vị Tỷ kheo, một vị A la hán, các lậu hoặc đã được tận diệt, phạm hạnh đã lập vững, những việc phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành tựu mục đích tối thượng, hữu kiết sử đã diệt, nhờ chánh trí đã được giải thoát, vị ấy sẽ được xem là tối thượng so sánh với bốn giai cấp, vì xứng với Pháp, không phải không xứng với Pháp.
"Này Vāsettha, bài kệ sau đây được Phạm thiên Sanamkumāra[20] tuyên thuyết:
Chúng sanh tin giai cấp,
Sát đế lỵ tối thắng.
Ai đủ cả trí, đức,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên.
“Này Vāsettha, bài kệ này được Phạm thiên Sanamkumāra, khéo hát chớ không phải vụng hát, khéo nói chớ không phải vụng nói, đầy đủ ý nghĩa chớ không phải không đầy đủ, được Ta chấp nhận.
“Này Vāsettha, Ta cũng nói như sau:
Chúng sanh tin giai cấp,
Sát đế lỵ tối thắng.
Ai đủ cả trí, đức,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên."
Như vậy, qua kinh Khởi Thế Nhân Bổn thuộc văn hệ Pāli, Thế Tôn đã xác chứng việc Phạm thiên Sanamkumāra tuyên thuyết về giai cấp tối thượng bằng cách nói cho Vāsettha nghe bài kệ giống như bài kệ của vị Phạm Thiên kia.
*Kinh Bà La Bà Đường[21]Một thời, Thế Tôn du hóa nước Xá-vệ, trú tại Đông viên, trong giảng đường Lộc tử mẫu. Lúc ấy Thế Tôn dạy cho Bà-tư-tra như sau:
"Này Bà-tư-tra, ở đây có ba giai cấp khiến cho không phải tất cả mọi người cùng tranh luận với nhau, thiện và bất thiện lẫn lộn, được các bậc Thánh khen ngợi hoặc không khen ngợi. Thế nào là ba? Đó là: dòng Sát-lợi, dòng Phạm chí, dòng Cư sĩ.
[...] 
“Này Bà-tư-tra, như vậy, Ta đã phân biệt rộng rãi về ba chủng tánh này vậy.
“Phạm thiên đế chúa nói bài kệ:
Loài hai chân, Sát-lợi tối tôn,
Đấy là chủ trương có chủng tộc.
Những ai cầu học Minh và Hạnh,
Vị ấy, Thiên, Nhân đều tán thán.
“Này Bà-tư-tra, Phạm thiên đế chúa khéo nói bài kệ này chứ không phải không khéo, khéo ca ngơi, phúng tụng chứ không phải không khéo, khéo ngâm vịnh và nói, chứ không phải không khéo, nói như thế này:
Loài hai chân, Sát-lợi tối tôn,
Đấy là chủ trương có chủng tộc.
Những ai cầu học Minh và Hạnh,
Vị ấy, Thiên, Nhân đều tán thán.
“Vì sao? Vì Ta cũng nói như vậy:
Loài hai chân, Sát-lợi tối tôn,
Đấy là chủ trương có chủng tộc.
Những ai cầu học Minh và Hạnh,
Vị ấy, Thiên, Nhân đều tán thán.”[22]
Như vậy, qua kinh này Thế Tôn cũng dạy rằng, chủng tộc Sát-lợi là tối tôn trong các chủng tộc.
*Kinh Phạm Chúa[23]Một thời, Đức Thế Tôndưới gốc cây bồ-đề, bên sông Ni-liên-thiền, tại tụ lạc Uất-bề-la, khi ấy ngài thành đạo chưa bao lâu.
Bấy giờ, có Phạm thiên vương, chúa của thế giới Ta-bà, với sắc thân tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu kính lễ dưới chân Thế Tôn, rồi ngồi lui qua một bên và nói kệ:
Ở trong các chủng tánh,
Lưỡng túc tôn Sát-lợi;
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng trong loài người”[24].
Bấy giờ Thế-Tôn ngài đáp lại như sau: Đúng vậy, Phạm thiên! Đúng vậy, Phạm thiên!
Ở trong các chủng tánh,
Lưỡng túc tôn Sát-lợi;
Bậc Minh Hạnh đầy đủ,
Tối thắng trong loài người."[25]Trong bài kệ có câu: “Ở trong các chủng tánh, lưỡng túc tôn Sát-lợi”, Pāli tương đương của câu này: “khattiyo seṭṭho janetasmi, ye gottapaisārino”[26]: những ai tin vào chủng tộc, thì Sát-lợi là tối tôn.

III. KẾT LUẬN
Như vậy, qua vài ý tưởng viện dẫn từ kinh văn ở trên, chúng ta thấy rằng, đức Thế-Tôn dạy rằng: giai cấp Sát-lợi là chủng tánh tối tôn hay giai cấp bậc nhất trong bốn giai cấp.
Nhưng vấn đề này không nhất thiết cố định, tùy vào căn cơ, quốc độ hay thời điểm mà Thế Tôn sẽ diễn thuyết sai biệt. Cụ thể như ở trong  Kinh Trung A-hàm, Kinh Nhất Thiết Trí, số 212, Đức Thế Tôn dạy rằng: “Có bốn chủng tộc này, Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ và Công sư, chúng bình đẳng đối với đoạn, không hơn kém, không sai biệt đối với đoạn vậy"[27].
Và ở nơi khác, khi đức Đức Thế Tôn đang du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc,  lúc bấy giờ Ngài nói rằng: “Này Ma-nạp, trước kia ngươi khen ngợi sự học hỏi, sau đó ngươi khen ngợi sự trì giới. Này Ma-nạp, như vậy Ta nói bốn chủng tánh thảy đều thanh tịnh, với sự giảng giải hiển thị, ngươi cũng nói bốn chủng tánh này đều thanh tịnh với sự giảng giải hiển thị.”[28]Nếu thấy được phương tiện thiện xảo[29] trong việc thuyết phápđức Thế Tôn đã thi thiết kiến lập như vậy, chúng ta sẽ vượt ra khỏi được những cực đoan, chấp thủvững chắc trên trung đạo, trong lộ trình thể nhập Thánh đạo vô lậu, giải thoát sinh tử.
 
[1] Lăng-già, Bản 10 quyển; T16n0671, tr.526c8.
[2] Lakāvatāra, Nanjio tr. 64.
[3] Thừa Skt. yāna. Cần phân biệt: yāna: “cỗ xe” với yana, “một con đường”.
[4] T16n671, tr. 526c8. Cf. Skt. Lap. 63.
[5] Dẫn theo Thuật ký, ghi là Đại16, số 669, chưa tìm thấy số trang.
[6] T7n220, tr. 1066a29; Skt. Suvikrāntavikrāmaparipcchā.
[7] Ibid., tr. 527a29.
[8] Skt. ibid., tr. 66: icchantika.
[9] Cf. Trường, Tiểu Duyên Kinh, Đại 1, tr. 37a.
[10] Ibid., tr. 37a.
[11] Pāli, S.6.11. Sanakumāra.
[12] Trường A-hàm, Đại 1, tr. 36b29.
[13] Ibid., tr. 39a.
[14] Ibid., tr. 39a.
[15] Ibid., tr. 39a.
[16] Trường A-hàm, Đại 1, tr. 83b.
[17] Đại 1, tr. 83b.
[18] Đại 1, tr. 83b.
[19] Digha Nikaya, Agganna sutta 27.
[20] Hán: Thường Đồng hình Phạm thiên.
[21] Cf. Kinh Trung A-hàm, kinh 154. Pali tương đương: Agaññasuttanta. Bản Hán, quyển 39. Pāli, D.27, Hán, biệt dịch, Trường A-hàm 5, “Kinh Tiểu Duyên”; No.10 Phật Thuyết Bạch Y Kim Tràng Nhị Bà-la-môn Duyên Khởi Kinh, Tống, Thi Hộ dịch.
[22] Kinh Trung A-hàm, kinh 154. Pali tương đương: Agaññasuttanta.
[23] Tạp A-hàm, Kinh 1190, Pāli, S.6.11. Sanakumāra. Biệt dịch, №100 (103).
[24] Tạp A-hàm, Kinh 1190, Pāli, S.6.11.
[25] Tạp A-hàm, Kinh 1190, Pāli, S.6.11.
[26] Pāli, S.6.11. Sanakumāra
[27] Đại 1, tr. 648a.
[28] Cf. Kinh Trung A-hàm kinh 151: Kinh Phạm chí A-nhiếp-hòa. Tương đương Pāli M.93 Assalāyana-sutta. Hán, biệt dịch No.71 Phạm Chí An-ba-la-diên Vấn Chủng Tôn Kinh, Đông Tấn, Trúc Đàm-vô-lan dịch.
[29] Skt. Upāyakauśalya , Hán phiên âm âu-hòa câu-xá-la, upāya: chỉ sự tiếp cận, động từ căn I, có nghĩa đi hay đến, và upa, tiền tố chỉ hướng đến gần, hay vị trí ở gần hay ở trên; kauśalya, mà gốc là do hình dung từ kuśala: thiện, lành, tốt đẹp hay khéo léo, Hán dịch là “thắng trí,” là chỉ nghĩa trí tuệ nhạy bén. Cf. Duy ma kinh nghĩa sớ, Gia Tường Cát Tạng, T38 N1781, tr. 931b18: 梵音稱漚和拘舍羅。此云方便勝智.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1058)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1218)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1685)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1625)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1518)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1112)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1496)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1445)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1361)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1420)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1754)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2028)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1470)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1125)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1461)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2094)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1508)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1589)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1425)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2973)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1412)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1431)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1764)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1735)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1672)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1527)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2701)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1651)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1645)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1453)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1479)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1649)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1586)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1469)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1467)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1552)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2237)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1577)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1550)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1673)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1891)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1555)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1439)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1687)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1445)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1760)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2422)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1490)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 2002)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1723)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1784)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1650)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1978)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1710)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1478)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1749)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1605)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1583)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1369)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1284)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant