Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tánh Không Vô Phân Biệt

20 Tháng Mười Một 202317:08(Xem: 900)
Tánh Không Vô Phân Biệt

Tánh Không Vô Phân Biệt


Nguyễn Thế Đăng

 sen4



Vô phân biệt
 được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật. Ở đây chỉ trích ra một đoạn, cho thấy tánh Không, tánh Như, pháp tánh, thật tế… là không có phân biệt:

Đức Phật nói: Chư Phật, chư Bồ tát và Độc giác Phật cùng A la hán được pháp này rồi vì chúng sanh thuyết pháp cũng chẳng chuyển đổi tướng các pháp. Vì Như, pháp tánhthật tế chẳng chuyển đổi được. Vì sao thế? Vì các pháp không có tánh… 

Sắc chẳng khác pháp tánh, chẳng khác Như, chẳng khác thật tế. Thọ, tưởng, hành, thức cho đến hữu lậuvô lậu cũng chẳng khác… 

Này Tu Bồ Đề! Vì là thế đế nên phân biệt nói có quả báo, chẳng phải trong Đệ nhất nghĩa đế. Vì sao thế? Đệ nhất nghĩa đế thật không có tướng, không có phân biệt, cũng không có lời nói. Đó là vì sắc cho đến pháp hữu lậuvô lậu, đều chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, rốt ráo Không, vô thủy Không vậy”.

(Phẩm Bốn Nhiếp, thứ 78)

 

Trong tánh Không, tánh Như, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, không có sự phân biệt của thế đế, nên không có sanh tử.

Trí huệ quán chiếu tánh Không thì thấy ba cõi sanh tử là do nhớ nghĩ, phân biệt mà thành:

Bởi cõi Dục là hư vọng, nhớ tưởng, phân biệthòa hợp danh tự, có tất cả tướng vô thường phá hoại, là pháp không có. Thế nên Đại thừa này vượt hơn tất cả thế gian và Trời, Người, A tu la”.

Bởi cõi Sắc và cõi Vô sắc là hư vọng, nhớ tưởng, phân biệthòa hợp danh tự, có tất cả tướng vô thường phá hoại, là pháp không có. Thế nên Đại thừa này vượt hơn tất cả thế gian và Trời, Người, A tu la”.

(Phẩm Thắng Xuất, thứ 21)

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Lúc thực hành Bát nhã ba la mậtđại Bồ tát quán như vầy: Chỉ có các pháp và các pháp làm nhân duyên cho nhau mà có nhuận ích, tăng trưởngphân biệt, so lường, trong đây không có cái tôi và cái của tôi”.

(Phẩm Thiên Vương, thứ 27)

Sự phân biệt của tâm thức đã tạo ra ba cõi và tất cả sự vật không thậthư vọng, vì “là pháp khôngcó”.

Năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã phân biệt, chia cắt, phân mảnh thực tại tánh Không thành một thế giới vật chất, chia cắt, tách biệt, phân mảnh, từ đó có sự hữu hạn và khổ đau:

Phật dạy: đúng vậy, này các Thiên tử! Tướng não hoại là tướng của sắc, cảm nhận là tướng của thọ, duyên lấy là tướng của tưởng, sanh khởi tạo tác là tướng của hành, biết do phân biệt là tướng của thức. Phật được tánh Không của các tướng ấy”.

(Phẩm Vấn Tướng, thứ 49)

Để giải thoát và giác ngộ, phải đưa năm ấm trở lại bản tánh Không của chúng. Nói cách khác, phải xóa tan sự phân biệt hư vọng của các thức, để trở lại “thật tướng của các pháp” là tánh Không vô phân biệt.

 

Trí huệ Bát nhã thấu suốt tánh Không là vô phân biệt:

Bạch Thế Tôn! Bát nhã ba la mật này rất sâu khó thấy, không có nhớ tưởng, không có phân biệt, vì là rốt ráo lìa vậy”.

(Phẩm Ma Sầu, thứ 62)

Trí huệ Bát nhã là thấy thật tướng của các pháp, đó là thấy tất cả các pháp là vô phân biệt, do đó thấy tất cả pháp là thanh tịnh:  

Tu Bồ Đề thưa: Ba la mật bất khởi là Bát nhã ba la mật

Phật bảo: Vì tất cả pháp là vô phân biệt vậy”.

(Phẩm Ca ngợi khắp trăm ba la mật, thứ 44)

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp thanh tịnh nên thanh tịnh này thanh tịnh.

Đức Phật nói: Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Vì sao mà ngã thanh tịnh nên sắc thanh tịnh và cả hai rốt ráothanh tịnh?

Đức Phật nói: Vì ngã vô sở hữu nên sắc vô sở hữu mà cả hai rốt ráo thanh tịnh.

….

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Ngã thanh tịnh nên Nhất thiết trí thanh tịnh.

Đức Phật nói: Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Vì sao thế? Vì vô tướngvô niệm vậy”.

(Phẩm Ca ngợi thanh tịnh, thứ 42)

Tánh Không là vô phân biệt, nên là vô tướngvô niệmVô tướng là không có tướng phân biệtvô niệm là không có niệm phân biệt.

 

Thực hành trí huệ Bát nhã là thực hành không phân biệt. Khi tâm không phân biệt thì thức phân biệtchuyển thành trí vô phân biệt.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài Tu Bồ Đề: Chỉ có Bát nhã ba la mật vô phân biệt thôi, còn năm ba la mậtkia có vô phân biệt chăng? 

Ngài Tu Bồ Đề nói: Năm ba la mật kia cũng đều vô phân biệt

Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài Tu Bồ Đề: Nếu tất cả pháp từ sắc đến vô vi tánh đều vô phân biệt thì làm sao phân biệt có sáu đường sanh tử là địa ngụcngạ quỷsúc sanh, trời, người, a tu la? Làm sao phân biệt là Tu đà hoàn, là Tư đà hàm, là A na hàm, là A la hán, là Độc giác Phật, là chư Phật? 

Ngài Tu Bồ Đề nói: Vì nhân duyên chúng sanh điên đảo tạo nghiệp nơi thân, khẩu, ý, theo nghiệp trước mà thọ thân trong sáu đường là thân địa ngụcngạ quỷsúc sanha tu la, người, trời. 

Như lời Tôn giả nói, làm sao phân biệt có Tu đà hoàn cho đến chư Phật? 

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Tu đà hoàn tức là vô phân biệt mà có. Quả Tu đà hoàn cũng là vô phân biệt mà có. Cho đến Phật và quả Phật cũng là vô phân biệt mà có. 

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Chư Phật quá khứ cũng là vô phân biệt, do dứt phân biệt mà có. 

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Thế nên phải biết tất cả pháp là vô phân biệt, vì là tướng bất hoại, vì các pháp là Như, pháp tánhthật tế vậy.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Thế nên đại Bồ tát phải hành Bát nhã ba la mật vô phân biệtThực hànhBát nhã ba la mật rồi thì được Vô thượng Giác ngộ vô phân biệt”.

(Phẩm Tịnh Nguyện, thứ 64)

Nghiệp là gì? Ban đầu là sự phân biệt khiến tách lìa mình khỏi tánh Không - tánh Như của mình và người, của mọi sự. Từ sự phân biệt tách lìa ta với thế giới, ta với người khác, của ta và của người khác, những phiền não tham, sân, si, kiêu mạnđố kỵ, nghi ngờ… khởi lên, rồi làm theo chúng. Đó là sự “điên đảo tạo nghiệp nơi thân khẩu ý, rồi theo nghiệp trước mà thọ nhận lấy thân trong sáu đường”.

Thật tướng của tất cả các pháp và thật tướng của tâm thức là tánh Không – tánh Như vô phân biệt. Do đó các quả vị trong con đường đều được xác định theo sự chứng đắc vô phân biệt ít hay nhiều hay hoàn toànVô phân biệt là phương tiện đồng thời là cứu cánh của con đường Phật giáo.

Nói theo Phật giáo Ấn-Tạng, Nền tảng là tánh Không vô phân biệtCon đường tiến hành trong vô phân biệt, và Quả là vô phân biệt viên mãn. Nền tảng tánh Không vô phân biệt ấy phải thấy, gọi là cái ThấyDuy trì, khai triển cái thấy vô phân biệt ấy là Thiền địnhHạnh là sống với và đi sâu vào cái Thấy tánh Không vô phân biệt suốt ngày, suốt đời. Cái Thấy, Thiền định, Hạnh đưa đến Quả là thể nhập trọn vẹn tánh Không.

Nói theo những thuật ngữ trong Kinh Đại Bát Nhãquán chiếu tánh Không vô phân biệt giúp người ta “tương ưng”, “nhập vào”, “an trụ” trong tánh Không, là thật tướng của tất cả các pháp. 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1300)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1359)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1588)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1723)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1683)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1082)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1574)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1556)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1737)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 2014)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1624)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1436)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1445)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1628)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1215)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1335)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1345)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1743)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1699)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3109)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1886)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1426)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1261)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1345)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1465)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1363)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1959)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1741)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1943)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1880)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2445)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1831)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2196)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2308)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2370)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1901)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2026)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2091)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2024)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2656)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1993)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1947)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1999)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1964)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2222)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2373)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2067)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2186)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1947)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1981)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2475)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2385)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4140)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2545)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3282)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2529)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2103)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1841)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3354)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant