Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghiệp Cần Được Hiểu Như Thế Nào?

01 Tháng Giêng 202417:34(Xem: 927)
Nghiệp Cần Được Hiểu Như Thế Nào?
Nghiệp Cần Được Hiểu Như Thế Nào? 

Hằng Như


kiep sau

Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này. 

Theo đó, hầu hết mọi người đều chấp nhậnnghiệp như là một định nghiệp hơn là một năng lượng hành hoạt của tâm thức. Họ thường nói “tôi khổ là do nghiệp của tôi” như thể nghiệp quá khứ hoàn toàn thống trị đời sống hiện tại và cả tương lai của mình. Nếu vậy, Đức Phật chẳng thể đóng góp được gì đối với việc chuyển hóa khổ đau của mỗi người. Sự thật, sự đóng góp của Đức Phậtvà đạo Phật cho nhân gian này quá lớn lao, trong đó có sự đóng góp của học thuyết về nghiệp. Do vậy, ta cần nhìn lại để xác định đâu là ý nghĩa đích thực của giáo lý nghiệp theo lời Phật dạy.

Nghiệp thường được hiểu theo khái niệm “nông nghiệp”

Vốn chịu ảnh hưởng lâu đời về văn hóa nông nghiệp, những người tin vào nghiệp dễ dàng chấp nhận những gì ta đang là và đang có trong hiện tại HOÀN TOÀN phụ thuộc vào những gì ta đã gieo tạo trong quá khứ. Nếu chúng ta bị ai lừa dối gạt lường thì cứ nghĩ rằng trong quá khứ, mình đã gieo hạt giống xấu, mình đã từng dối gạt người khác. Vẫn biết một điều rõ ràng là những gì ta gieo trong hiện tạichắc chắn ta sẽ gặt kết quả trong tương lai. Thế nhưng, không thể nhìn vào một sự kiện, một hiện tượng mà vội quy kết một cách đơn giản như vậy là chưa chính xácLuật nhân quảnghiệp báo không diễn ra trên không gian phẳng và những gì ta nhận lấy không đơn thuần là kết quả của phép tính cộng từ một vụ mùa sau khi gieo giống một thời gian, như người ta thường nói:

Rằng ai muốn biết nhân xưa,
Hãy xem hoàn cảnh bây giờ chịu đây.
Muốn biết quả báo sau này,
Xem điều tội phước ta nay đang làm.

Cách hiểu nghiệp theo tư duy “nông nghiệp” có gì không ổn?

Nếu nói rằng ta gặt những gì đã gieo, có lúc ta thấy nhiều lúc dường như trái ngược với những gì ta chứng kiến và trải nghiệm trong cuộc sống. Ta hành động với tâm lành, ví dụ ta biếu vài đồng tiền lẻ để vào bát của một người đi xin và đó là tất cả những gì ta có trong lúc ấy với trọn tâm lành, người ấy quay lại mắng ta “nhìn người sáng sủa bảnh bao vậy mà sao keo thế, có mấy đồng tiền lẻ thôi à?”. Ta thường xuyên chứng kiến những đồng nghiệp của mình không chu toàn công việc cơ quanlợi dụng thời gian làm việc để gõ tin, tán gẫu bạn bè, năng lực làm việc kém, ấy thế mà khéo sống và biết thời biết thế một chút là nhanh chóng được thăng quan tiến chức. Một người tôi quen có mẹ mắc bệnh ung thư ở giai đoạn cuối, sự sống đang đếm bằng ngày, vừa gởi tin tâm sự với những dòng tin đầy tâm trạng não nề  “cô ơi, mẹ con trước giờ ăn ở hiền lành, chân chất, không tham lam, không thủ đoạn, cũng hay giúp đỡ người và được nhiều người yêu thương, tại sao cuối đời lại phải chịu nhiều đau đớn trong nước mắt như vậy?” Bao chuyện “ngược đời” như thế cứ diễn ra trước mắt, người xấu ác thì giàu có sung sướng, trong khi đó, những gì tồi tệ nhất lại đến với người tốt khiến tâm ta dao độngchao đảo và bắt đầu nghi ngờ về nhân quả. Liệu có cái gọi là “ở hiền, gặp lành” trong đời này không?

Làm sao để giải thích sự “trái ngang” có vẻ như không theo một quy luật nào cả thế này, trong khi đó, những gì ta biết về nhân quả là một quy luật? Vấn đề là ở chỗ, nếu ta nhìn sự vận hành của luật nhân quả theo kiểu “nông nghiệp”, thì yếu tố thời gian mang tính quyết định từ khi gieo nhân đến lúc hái quảHạt giống xuống đất, sau một thời gian nhất định, ta thu hoạch vụ mùa. Ta cũng nghĩ rằng khi tạo tác một hành động thiện ác nào đó, sau một thời gian NHẤT ĐỊNH ta tự QUY ĐỊNH theo cảm tính của mình, ta mong có được kết quả. Nếu chưa thấy có kết quả, ta vội nghi ngờ có điều “không ổn” với luật nhân quả, tệ hơn nữa là kết nhận luật nhân quả không đúng hoặc không có mặt để chi phối hành động và kết quả hành động như Đức Phật đã dạy.

Tất nhiên từ nhân đến quả cần có thời gian, nhưng thời gian vẫn chưa phải là yếu tố duy nhất, lại không phải là thời gian cố định, nhất định và tự ta quy định một cách tùy tiện mà được. Chúng ta tự hạn định “thời gian bảo hành” cho luật nhân quả là CHỈ Ở ĐỜI NÀY, nhưng thực tế không đơn giảnnhư vậy. Nhiều điều trong cuộc sống không thể giải thích và giải quyết được nếu chỉ căn cứ vàomỗi một yếu tố thời gian trong tiến trình vận hành của nhân quả hạn cuộc chỉ trong kiếp sống này. Ví dụ, tại sao một em bé sơ sinh qua đời? Nếu chỉ đóng khung trong kiếp sống này, em làm gì nên tội? Em chưa đủ thời gian để cơ thể học cách tiêu hóa những giọt sữa mẹ đầu đời nữa mà, em đã làm điều gì ác chứ? Đến cuộc đời này rồi ra đi chóng vánh chưa hẳn đã là điều không tốt, nếu chúng sanh ấy, chỉ “ghé qua” cõi người trong giây lát rồi đi về cảnh giới thiện lành hơn thì sao? Đừng vội gán chữ “nghiệp” vào một phân đoạn nào đó của một con người khi những gì chúng tabiết chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.

Vậy Đức Phật thật sự nói về giáo lý nghiệp là gì?

Nghiệp là tác ý

Thay vì cứ chăm chăm nhìn nghiệp là kết quả của hành động tạo tác trong quá khứĐức Phậtchuyển hướng, mở ra cho chúng ta một lối nhìn mới vào giáo lý nghiệp. Ngài nhấn mạnh, nghiệp là tác ý. Hành động nào do tâm ý làm động cơ - ở mức độ ý thức cũng như ở tầng sâu hơn của tiềm thức và vô thức - đều tác thành nghiệp. Câu kinh có thể gọi là “tuyên ngôn” về giáo lý nghiệp được trích dẫn nhiều nhất là: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy” (Tăng chi bộ kinhchương Năm, phẩm VI, kinh số 57 : Sự kiện cần phải quán ; Tăng chi bộ kinhchương Năm, phẩm XVII, kinh số 161: Trừ khử hiềm hận). Khái niệm nghiệp được hiểu là hành động thiện ác và quả báo tương ứng vốn đã có trong truyền thống Bà-la-môn từ lâu rồi, cái mới của Đức Phật là chỉ ra tầm quan trọng của tâm ý với vai trò động cơ và động lực trong quá trình tạo nên hành động ấy, chứ không phải bản thân hành động. Nói cách khác, Đức Phật đặt tầm quan trọng của người chỉ huylãnh đạo và điều động chứ không phải người thực hiện công việc.

Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng suy tư là nghiệp; sau khi suy tư, tạo nghiệp về thân, về lời, về ý”. (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm VI, kinh số 63). Trong ba loại thân nghiệpkhẩu nghiệp và ý nghiệp thì ý nghiệp đóng vai trò quan trọng nhất (Trung bộ  kinh số 56: Kinh Ưu-bà-ly). Chính tầm quan trọng của tâm trong quá trình tạo nghiệp nên Đức Phật dạy Rahula hãy luôn luôn phản tỉnhtrước khi làm một nghiệp nào đó về thân, khẩu hay ý. Ngài nói “này Rahula, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành thân nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành khẩu nghiệp. Sau khi phản tỉnhnhiều lần, hãy hành ý nghiệp.[…] Hành động nào có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ, ta nên tránh” (Trung bộ kinh số 61: Kinh Giáo giới Rahula).

Viêc gi cũng do tâm dẫn đầu, tâm điều khiển, tâm tạo. Nếu một người nào đó nói hay hành động với tâm ô nhiễm, khổ đau sẽ đi theo như bánh xe đi theo chân con vật kéo xe. (Pháp cú kệ số 1)

Viêc gi cũng do tâm dẫn đầu, tâm điều khiển, tâm tạo. Nếu một người nào đó nói hay hành động với tâm thanh tịnhhạnh phúc sẽ theo sau như bóng không rời hình.(Pháp cú kệ số 2)

Tác ý là nghiệp được Đức Phật nhắc đi nhắc lại vô số lần trong các bài giảng của Ngài được ghi lại trong kinh điển, đủ biết đây là ý nghĩa nòng cốt nhất của giáo lý nghiệp trong hệ thống giáo lý của Ngài. Nếu ta hành động về thân, miệng và ý với chủ tâm càng bất thiện, như tham, sân và si, chính bản thân mình càng chịu nhiều độc hại, khổ đau, bất kể những gì đến với mình từ bên ngoài. Nếu ta hành động với chủ tâm thiện, như từ bi và trí tuệ, tâm ta được mạnh mẽ, bao dung hơn, kiên nhẫnhơn và nhờ đó, ít bị tổn thương hơn, tâm an lạcthảnh thơihạnh phúc, bất kể những gì xảy đến với mình từ con người và môi trường bên ngoài.

Có khi người ác có thể may mắn và giàu có

Đức Phật chú trọng vào vai trò của chủ ýchỉ đạo và thủ lĩnh của tâm ý hơn là hành động và các tình huống bên ngoài, điều này mở ra cho chúng ta một lối nhìn mới, nhận thức rõ rằng, không hẳn sống thiện gặp thiện lành, mà người ác có thể may mắngiàu có. Đúng vậy, với thủ đoạnlọc lừa, với xảo trá điêu ngoa, với cách sống chụp giựt, những người này có thể làm giàu không chính đángmột cách dễ dàng. Thế nhưng, dù sống với khối tài sản lớn, quyền thế lớn, tâm hồn họ không lúc nào được thanh thảnhạnh phúc an vui mà bao khổ đau, lo sợ, bất an vây bủa. Đó là chưa kể quả báo tương ứng từ những hành nghiệp ấy, chắc chắn sẽ đến và khi nào đến, chỉ là vấn đề thời gianmà thôi.

Điều này cũng có nghĩa khi ta hành động với chủ tâm thiện lành, không có nghĩa ta tránh được những tai ươngrủi ro, khó khăn trong cuộc sống ngay tức thời, nhưng có một điều chắc chắn rằng, dù bất cứ điều gì đến với mình, tâm ta thanh thản, nhẹ nhàng và an ổn. Còn quả báo tốt đẹp từ nhân thiện lành, không cầu cũng đến khi đúng thời điểm của nó. Khi tâm ý thiện lành làm động cơ cho các tạo tác về thân, miệng và ý, ta có nội lực nhiều hơn, vững chãi hơn để duy trì tâm ở trạng thái cân bằng, ít chao đảo, nhờ đó tâm bình thản và không hao tốn năng lượng để kềm chế và làm lặng đi những xung động trong tâm thức. Tâm an ổn là tâm tự tạihạnh phúc, an vui. Vậy mới biết khổ vui là trạng thái chủ quan của tâm chứ không phải do hoàn cảnh đem lại. Giàu cótài sản nhiều chưa hẳn là hạnh phúc và nghèo nàn chưa chắc đã là khổ!

Nghiệp khởi từ tâm, tức là từ nhận thức và hành động nơi mỗi con người, chứ không phải do sự vận hành của các quy luật khách quan diễn ra ở thế giới bên ngoài. Đến đây, ta dễ dàng chấp nhận, bệnh không phải là kết quả của một nghiệp xấu nào đó ta đã gieo trong quá khứ. Là con người, như mọi sanh linh khác, ta già đi, đau đớn trong bệnh tật và kết thúc một giai đoạn sống bằng cái chết. Bệnh là một phần của sự sống, là sự thay đổi, già nua của thân ngũ uẩn vật lý này. Chết cũng là một phần sự sống, là bản lề giữa kiếp sống này và kiếp sống khác, có gì xấu ở đây mà quy cho nó là kết quả của một nghiệp xấu ác? Bệnh, chết, dù xảy ra ở thời điểm nào trong cuộc đời mình, cũng không phải là nghiệp xấu; phản ứng tiêu cực, kháng cự và không chấp nhận những sự thật khách quan này mới là đang tạo nghiệp xấu. Ta không có quyền chọn lựa không già, không bệnh, không chết. Điều ta chọn lựa một cách khôn ngoan là thái độ ta đón nhận những sự thật này như thế nào để thân bệnh mà tâm không bệnh, thân mất mà tâm tiếp nối chuyển giao nhẹ nhàng từ kiếp này sang kiếp khác. Thay vì kháng cự, ta thỏa hiệpthuận theo; thay vì oán trách và muốn nó khác đi, ta nên khách quan nhìn nó là một quy luật đi ngang qua mọi sự vật hiện tượng, trong đó có bản thânmình, cuộc sống mình cũng như cuộc sống bao người thân quanh ta.

Các định luật nhân quả

Trong các bản luận tạng, sớ giải các kinh như Sớ giải kinh Trường bộ (chú giải kinh Đại bổn), Sớ giải bộ pháp tụ (chú giải Pháp tập luận), Nhập A-tỳ-đạt-ma luận (tóm tắt A-tỳ-đạt-ma), các luận sưcho rằng, Đức Phật không chỉ dạy định luật nhân quả mà còn nói định luật này rất chi tiếtrõ ràngvề sự thể hiện ở các cấp độ khác nhau vận hành trong vũ trụ.

Cấp độ căn bản và đơn giản nhất là định luật vật lý (Utu Niyāma), liên quan đến tiến trình của những sự vật vô cơ, các hiện tượng vật lý như thời tiết, mưa, gió, nóng, lạnh. Ví dụ trời mưa thì lạnh, nắng thì nóng cũng là một dạng thức sơ đẳng của nhân quả. Những thiên tai như bão lụt… không phải là quy luật của nghiệp báo. Khoa học có các môn học nghiên cứu về quy luật nhân quảnày như vật lý, hóa học hoặc khí tượng học.

Định luật nhân quả thứ hai là định luật chủng tử (Bīja Niyāma). Đây là định luật nhân quả vật lýtrong tiến trình phát triển của những sinh vật hữu cơ có mầm sống và có cấu trúc cơ thể phức tạphơn, thấp nhất là cây cỏ. Do định luật này thì mầm nào sanh giống đó. Cây lúa do hạt lúa mà có, hạt xoài nảy mầm phát triển thành cây xoài. Đây cũng là một định luật nhân-quả nhưng hoàn toànkhông phải quy luật của nghiệp báoMôn sinh học chuyên nghiên cứu về quy luật nhân quả ở cấp độ này.

Định luật tâm lý (Citta Niyāma) là định luật nhân quả về tâm, tâm lý như ý niệm, ý tưởng, tưởng tượng, hồi ức, trí nhớtư tưởngtrực giác và những kết quả tương ứng. Những trạng thái tâm lý, những diễn biến tâm lý nội tâm theo trình tự nhân quả tương quan đưa đến phán đoánnhận thứcsuy luậnchi phối sinh hoạt hữu thức hay vô thức của con người đều thuộc phạm vi của định luậtnày.

Một định luật nhân quả chi phối con người ở phương diện xã hội và đạo đức là định luậtnghiệp (Kamma Niyāma). Mỗi người đều có những trải nghiệm sinh động về quy luật nhân quả này: nếu tác ý thiện, thì kết quả tương ứng là thiện, nếu tác ý ác, kết quả tương ứng là ác. Đức Phậtdạy, “tác ý là nghiệp và nghiệp được thể hiện qua ba phương diệný nghĩlời nói và hành động” (Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm VI, kinh số 63). Như vậy, chủ ý của tâm là yếu tố quyết địnhtrong cơ chế vận hành của quy luật này. Tự kiểm chứng lại những trải nghiệm của bản thân, ta thấy: Khi tâm tác ý thiện thì thân tâm thư thái nhẹ nhàng, an vui…., khi các tâm sở bất thiện có mặt thì thân tâm ta nặng nề, bất annóng nảy, trì trệ, bối rối, bất an….

Định luật quy pháp (Dhamma Niyāma) là định luật nhân quả bao quát và toàn triệt nhất về sự vận hành của vạn pháp trong thế giới hữu viĐịnh luật này bao gồm tất cả các quy luật vận hành của thế giới tự nhiên và xã hội. Mọi pháp hữu vi đều thay đổi, đều mang tính cấu thành không có chủ thể và cùng nương nhau tồn tại trong mối liên hệ duyên sinh: do cái này có, nên cái kia có; do cái này không, nên cái kia không. Do cấu thành, nên vạn pháp thay đổi; do thay đổi, mà không có một thực thể cố định. Do thay đổi là bản chất, ai cố chấp cho là thường còn là tự chuốc lấy khổ đau…

Như vậy, về phương diện đạo đức và luân lý xã hội, trong năm quy luật nhân quả trên, con ngườichỉ có thể can thiệp vào định luật nghiệp. Với chủ tâm, động cơ và động lực con người đặt vào trong hành động mà kết quả tương ứng được tạo thành. Trên hành tinh này chỉ có con người mới có khả năng tự định hình trong tâm về hành động mình sắp làm một cách có ý thức đầy đủ để đưa đến kết quả mình có thể dự liệu được, nên Đức Phật gọi con người là loài tối thắng giữa các loài hai chân. Định luật nghiệp mở ra một không gian thoáng đãng cho chúng ta phản ứng, tự sắp xếp, điều chỉnh những tập khí của thân, miệng và ý. Cái quý giá nhất của đời sống con người là tiềm năng của mỗi cá thể mà chính bản thân người ấy cũng không thể hiểu hết. Như vậy, định luậtnghiệp là cơ chế nhân quả vận hành từ trong tâm ra đến thân, từ phương diện đạo đức đến xã hội, đã được Đức Phật chỉ ra và nhấn mạnhChính định luật này mở ra cơ hội cho mỗi người chúng taphát huy tối đa tuệ quán của mình đến mức cao nhất và tất nhiên là chịu trách nhiệm hoàn toàn về cuộc đời mình.

Thay lời kết

Trong năm định luật trên, đã có bốn định luật xảy ra theo tiến trình nhân quả khách quan chứ không theo nghiệp báo ứng tùy vào sự tác ý chủ quan trong tâm thức con người. Những hành động và phản ứng tâm lý có ý thức, mang tính đạo đứcluân lý (thiện-ác, tốt-xấu…), những quyết định, những chủ đích, những hành động có đầu tư ý chí của mỗi cá nhân mới tạo ra sự báo ứng của nghiệp. Như vậy, chúng ta cần hiểu và phân biệt rõ đâu là nhân quả khách quan, đâu là nghiệp báochủ quanPhạm vi của các định luật nhân quả khách quan rất rộng lớn. Nếu chúng ta không thấu triệt dễ sinh ra ngộ nhận, cái gì cũng đổ thừa cho nghiệp thì không chính xác, lại tạo tâm lý nặng nề khi nghi ngờ về giáo lý nghiệp mà mất phương hướng và động cơ để chuyển hóa trong cuộc sống.

Nếu nói rằng tất cả mọi thứ đều là nghiệp của mình nghĩa là ta đơn giản hóa cuộc sống sinh độngnày thành một màu đơn điệu trên một trục nhân-quả diễn ra trên mặt phẳng của không gian có thể quan sát và thời gian có thể tính đếm mà thôi. Làm như vậy, ta đồng thời “vô hiệu hóa” các định luậtnhân quả khách quan của vật lýchủng tửvạn pháp và tâm lý mà chỉ thấy sự vận hành của mỗi một định luật nhân quả của nghiệp mà thôi. Thật ra, quy luật của nghiệp nhân và nghiệp quả chỉ là một trong năm định luật tác độngvận hành vạn pháp trong vũ trụNhận ra điều này, ta dễ dàng hiểu rằng một sự kiệnhiện tượng, sự việc nào đó chỉ là kết quả của một số nguyên nhân và các duyên (điều kiện) ở phương diện vật lý thôi chứ chưa hẳn đó là quả của nghiệp. Ta cũng không mơ hồ nghĩ hay tin rằng, bằng cách cho đi tài vật, ta sẽ giàu sangsung túc của cải trong tương lai, trong khi động cơ của hành động mới là chủ nhân tạo nghiệp. Đừng quan tâm đến cái bóng cây nghiêng mà ta phải nỗ lực sửa cái cây cho thẳng. Nhận rõ điều này, với chánh niệm tỉnh giác, ta dùng phương pháp thế như bài kinh An trú tầm (Trung bộ kinh số 20) diễn tả bằng hình ảnh một người thợ mộc dùng cái nêm này để đánh bật một cái nêm khác ra, ta “lọc máu” cho tâm, thay tham, sân, si bằng từ, bi, hỷ, xả để đưa nguồn năng lượng tươi mát này vào trong mỗi tác ý của hành động thuộc về thân, miệng và ý, chắc chắc những chủ tâm thiện lành này sẽ quyết định ta là con người như thế nào mà không cần quan tâm tạo nghiệp gì để được giàu sang sung sướng.

Quá trình “lọc máu cho tâm” mới chính là hành trình tạo nghiệp thiện của mình vậy! 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1301)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1365)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1598)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1724)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1683)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1083)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1578)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1556)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1738)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 2015)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1624)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1441)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1446)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1629)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1216)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1338)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1346)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1745)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1702)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3115)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1888)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1431)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1264)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1355)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1470)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1365)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1960)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1741)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1944)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1881)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2445)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1831)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2198)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2311)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2376)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1916)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2029)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2093)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2026)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2656)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1993)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1949)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 2001)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1966)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2222)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2375)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2071)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2187)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1948)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1988)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2486)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2389)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4143)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2548)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3284)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2531)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2103)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1841)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3354)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant