Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quan Điểm Y Pháp Bất Y Nhân Trong Kinh Điển Pali Và Hán Tạng

03 Tháng Giêng 202417:43(Xem: 868)
Quan Điểm Y Pháp Bất Y Nhân Trong Kinh Điển Pali Và Hán Tạng
Quan Điểm Y Pháp Bất Y Nhân  Trong Kinh Điển Pali Và Hán Tạng    

Thích Nữ
 Huệ Giác

Có Kiếp Sau Không

Tóm tắtPhật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duytrí tuệ cùng giá trị đạo đức cao. Những tinh túy đó được gọi là “Pháp” – là nguyên lý vận hành của thế giới, nguyên lý tư duy của cuộc đời. “Pháp” này là chân lý do Đức Phật thực hànhtu tậpthiền định, dùng trí tuệ tư duy mà có được. Đức Phật đã dùng chân lý đó như ánh sáng để soi rọi cho chúng sinh còn vô minh đi về nẻo chánh. Cả phần đời còn lại  Ngài dùng để nói Pháp cho chúng sinh tỏ ngộ, và chúng sinh sẽ dựa vào Pháp để làm hành trang tu tậpcho chính mình. Đó chính là quan điểm “y pháp bất y nhân” – mà Đức Phật mong muốn chúng sinh phải luôn nhớ. Sau này khi Đức Phật vào Đại Niết Bànquan điểmnày tiếp tục được truyền bá. Theo dòng thời gian, do nhiều yếu tố khách quan đã có sự phát triển trong quan điểm này. Đề tài này sẽ thể hiện quan điểm của tác giảvề sự phát triển trong quan điểm “Y pháp bất y nhân” trong kinh điển Pali và Hán Tạng, từ đó chỉ ra nguyên nhân dẫn đến sự phát triển đó cùng ý nghĩa của nó mang lại.

DẪN NHẬP
Đức Phật là một bậc đạo sư từ bi và trí tuệ, Ngài dùng cuộc đời của mình để tìm ra con đườngđúng đắn cho nhân loại, đó chính là pháp – là những nguyên lý vận hành của thế giới, là nguyên lý tư duy của cuộc đời này. Khi tìm ra con đường rồi, Ngài cho rằng mình chỉ “là người chỉ đường”, chứ không nhận là người khai sáng đạo Phật hay lãnh đạo Tăng chúng gì cả. Đức Phật đã dẫn dắt cho nhiều người tìm đến Đạo Phật, được Ngài chỉ cho chánh pháp, chỉ cho con đường đi đến hạnh phúc. Nhưng thực hiện theo hay không là quyền của mỗi cá nhân con người. Và khi Đức Phật nhập diệt, tuy nhục thân của Ngài không còn, nhưng pháp của Ngài vẫn còn trên thế gian. Nhớ đến lời Đức Phật dạy “hãy nương tựa vào chính mình, nương tựa pháp”, vì thế các đệ tử của Đức Phậttrên tinh thần “y pháp bất y nhân” cũng chính là nương tựa vào pháp, nương tựa vào chính mình để tu tậptìm ra hạnh phúc và giải thoát chứ không nương tựa vào bất kỳ ai.
KHÁI NIỆM Y PHÁP BẤT Y NHÂN

Y pháp bất y nhân là dựa vào giáo pháp chứ không dựa vào con người. Trong xã hội ngày nay, người ta thường nói “căn cứ vào hiến pháp và pháp luật” chứ không phải dựa vào bất kỳ quan điểmcá nhân của ai để quản trị xã hội dù họ giữ cương vị nào. Trong Phật giáo đã có từ rất sớm tư tưởng là “phải dựa vào pháp chứ không dựa vào bất kỳ ai” – pháp chính là nguyên lý vận hành của vũ trụ này. Trong Kinh Trung Bộbài Kinh Thánh CầuĐức Phật đã nói về Pháp như sau: “Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luậnvi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dụcham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dụcham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccāyata Paticcasamuppāda (Y tánh duyên khởi pháp); sự kiện này thật khó thấy, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly thamđoạn diệt, Niết bàn”[1]. Và nguyên lý vận hành của các pháp đó theo Đức Phật chính là Duyên KhởiVô Thường và Vô Ngã tức “Tam Pháp Ấn” trong Phật giáo. Đó là nguyên lý, là định luật vận hành thế gian. Thế mới thấy, Đức Phật với sự thanh tịnh tuyệt đối, dứt trừ hết ba độc [2] và phiền não nên đã đạt được trí tuệ siêu việt mà người thường không thể đạt được. Đó là pháp, là chân lý, là con đường đưa đến sự an lạchạnh phúc.

Đức Phật thị hiện tại thế gian, tìm ra chánh pháp cho chúng sinh hành theo để tìm đến hạnh phúcvà mục đích cuối cùng là giải thoát, không còn khổ đau. Theo định luật vô thường tại thế gian giả tạm, Ngài đã nhập Đại Niết Bàn, vào cõi tịch tịnh thoát vòng luân hồi sinh tử. Tuy nhục thân Đức Phật không còn tại thế gian, thế nhưng Ngài đã để lại cho hàng đệ tử, cho chúng sinh hệ thống giáo lý – lời dạy của Ngài, chính là pháp. Để hàng đệ tử và chúng sinh nương tựa vào đó tu tập, không nương tựa vào ai khác, xem pháp là thầy của mình mà dùng nguyên lý tư duy để soi xét, để hành theo nhằm đem lại lợi ích an lạc và giải thoát. Đây chính là “Y pháp bất y nhân” của Đức Phật và thường được nhắc đến trong các bài Kinh Trung Bộ, Kinh Tạp A-Hàm, Trung A-Hàm, Đại Bát Niết Bàn,… Đức Phật thường đề cập: “Này các Tỳ kheo hãy nương tựa mình, nương tựa pháp”.

QUAN ĐIỂM Y PHÁP BẤT Y NHÂN TRONG KINH ĐIỂNPALI
Kinh điển Pali hay còn gọi là Thánh điển Phật giáo được truyền thừa qua hình thức khẩu truyền, có nguồn gốc từ giáo pháp nguyên thủy thời Đức Phật và lưu truyền qua ba lần kết tập kinh điển tại Ấn Độ. Đến đại hội kết tập kinh điển lần thứ tư tại Tích Lan (khoảng thế kỷ I TCN), Thánh điển được viết trên lá bối và lưu truyền đến ngày nay. Hai tác phẩm Đảo sử (Dīpavamsa) và Đại sử(Mahāvamsa) đều ghi nhận rằng trong triều đại Valagamba (29-17 TCN) tại Anuradhapura, Tích Lan, các cao Tăng thuộc làu Tam tạng Pāli bắt đầu viết kinh Phật trên lá bối để giữ gìn và truyền bálời Phật dạy một cách hiệu quả hơn [3]. Ngày nay, tại các nước Phật giáo Nam truyền như: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, ngoài ấn bản Tam tạng thánh điển Pali, đều có các bản dịch Thánh điển Phật giáo bằng quốc ngữ của họ và Việt Nam cũng thế.

Quan điểm “y pháp bất y nhân” trong kinh điển Pali cũng được lặp đi lặp lại trong các bộ kinh. Theo đó, Đức Phật thường đề cập: “Này các Tỳ kheo hãy nương tựa mình, nương tựa pháp”. Tiêu biểunhư Kinh Trung Bộ Đức Phật dạy: “Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác” [4].

Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình” là bản thân hành giả phải tự quyết định, chứ không phải nhờ bất cứ một người nào khác để quyết định cho mình được. Nhưng khi nói về quan điểm “Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình” thì Đức Phật đã nói đến “nương tựa Pháp”. Trước khi chúng ta muốn “nương tựa mình” thì chúng ta phải hiểu nguyên lý vận hành của các pháp, nguyên lý vận hành của tư duy. Bởi nếu ta hiểu được nguyên lý vận hành của tư duy, của các pháp thì hành giả mới có thể nương tựa mình được. Còn nếu hành giả còn chưa thấy rõ được nguyên lý vận hành của các pháp mà tuyên bố rằng: “Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình” thì hành giả đang nương tựa vào sự mơ hồ, nó không tạo ra hạnh phúcan lạc cho chúng ta, mà nó chỉ mang lại khổ đau mà thôi. Ví dụ như một người mù nói rằng “tôi tự đi” thì làm sao đi được? mà phải nhờ người khác. Cũng vậy, khi còn là kẻ mù thì ta phải nhờ người khác dẫn đường. Cho nên đó là vấn đề vì sao Đức Phật khuyên chúng ta phải “thấy rõ các pháp” sau đó mới lấy cái “thấy rõ pháp” đó để làm cái tiêu chuẩn quyết định cho hướng đi và cách làm việc, tư duy của chính mình để mang lại hạnh phúcan lạc, tiến đến giải thoát.

Và bài học về “nương tựa chính mình, nương tựa các pháp” hay “y pháp bất y nhân” của Đức Phậtdạy, sau này đã được Tôn giả A-nan nhắc đến trong một câu chuyện đó là bài Kinh Gopaka Moggallana trong Kinh Trung Bộ [5]. Tác giả xin tóm tắt lại bài kinh này như sau, Bà-la-môn Gopaka Moggalana hỏi ngài A-nan về vấn đề “có ai đạt được thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ các pháp như Đức Phật?”[6], “Đức Phật có sắp đặt cho ai làm chỗ cho đại chúng nương tựa, thay thế Đức Phật khi Ngài Nhập Diệt không?”[7] và “hay có một Tỳ kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận và một số đông các vị trưởng lão sắp đặt sẽ là chỗ nương tựa cho chúng Tăng không?”[8]. Với những câu hỏi này Ngài A-nan khẳng định rằng trước khi nhập diệtĐức Phật chưa từng truyền cho bất kỳ ai lãnh đạo chúng Tăng, hay không hề chỉ định ai thay thế mình. Và trong chúng Tăngcũng chưa bao giờ nhóm họp để chỉ định bất kỳ ai thay thế Đức Phật hay làm chỗ nương tựa cho đại chúng. Và Tôn giả A-nan đã khẳng định rằng tuy Đức Phật nhập diệt nhưng Pháp của Ngài tìm ra vẫn còn đó, đó chính là nơi nương tựa của chúng Tăng, nương tựa vào Pháp, nương tựa chính mình. Bằng cách nhận biếttư duy các pháp của Đức Thế Tôn để lại, từ đó lấy làm chuẩn cho việc tu tậpgiải thoát chứ không nương tựa vào một ai cả. Đây chính là bài kinh mang nội dung về “y pháp bất y nhân”.

Có thể thấy, quan điểm “y pháp bất y nhân” được lặp đi lặp lại trong kinh điển Pali khá nhiều. Từ đó có thể thấy Đức Phật là một bậc thầy trí tuệtừ bi, thấu hiểu sự lo lắng của các đệ tử thế hệ sau này. Vì thế, Đức Phật đã dùng cuộc đời mình tầm chân lý chánh pháp và dẫn dắt những đứa con còn vô minh trong sáu nẻo. Với sự khiêm hạ vô biên chỉ nhận mình là “người chỉ đường” và để lại quan điểm “y pháp bất y nhân” cho nhân loại với kho tàng giáo lý đồ sộ, khúc chiết cùng mục đíchcuối cùng là dẫn đến an lạc, đoạn trừ khổ đau, tiến đến giải thoát.

QUAN ĐIỂM “Y PHÁP BẤT Y NHÂN” TRONG KINH ĐIỂNHÁN TẠNG
Theo các nhà Đại thừa, cũng vào thế kỷ I TCN trở đi, kinh điển Đại thừa bằng tiếng Sanskrit lần lượt được kết tập và phổ biến. Ngoài các bản kinh Đại thừa quan trọng tồn tại bằng nguyên ngữ Sanskrit, phần lớn văn học Phật giáo Đại thừa được lưu giữ qua các bản dịch Hán cổ, được các vua chúa, đại tín chủ lưu bố qua các bản chép tay, khắc trên đá, khắc trên gỗ và về sau biên tậpthành các Đại tạng kinh tầm vóc quốc gia ở Trung Hoa [9].

Theo tất yếu lịch sử khách quan, chân lý sẽ luôn được đón nhận và công nhận theo năm tháng. Giáo pháp của Đức Phật tại thế gian chính là chân lý, khoa học ngày nay cũng từng bước chứng minh sự chính xácđúng đắn trong giáo lý Phật giáo mà Đức Phật đã dùng trí tuệ của mình thấy được hàng nghìn năm trước. Và giáo pháp đó đã được truyền lại cho các đệ tử của Ngài trên trên thần “y pháp bất y nhân”.

Nhưng không phải chỉ dừng lại ở đó, quan điểm này còn được phát triển hơn ở thời kinh điển Đại thừa mà đặc biệt là trong kinh điển Hán Tạng. Đến thời kinh điển Hán Tạng thì không phải chỉ có “y pháp bất y nhân” nữa mà đã phát triển thành “tứ y pháp” gồm: “1) y pháp bất y nhân, (2) y nghĩa bất y ngữ, (3) y trí bất y thức, (4) y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh” [10]. Trong đó:

Thứ nhất “y pháp bất y nhân” như đã nói ở trên chính là dựa vào chính mình, dựa vào giáo phápchứ không dựa vào bất kỳ ai cả. Chính mình làm ngọn đuốc cho mình bằng cách tư duy và thực hành lời Đức Phật dạy, lấy đó làm chuẩn, là hành trang trên con đường giác ngộgiải thoát.

Thứ hai là “y nghĩa bất y ngữ”, hành giả phải tư duy thật sâu sắc ý nghĩa của giáo pháp để tu tậpchứ đừng dính mắc vào ngôn ngữtừ ngữ của người diễn đạt để rồi chính mình là người phiền não. Bởi vì Đạo Phật là đạo của hạnh phúctrí tuệ chứ không phải sự dính mắc, chấp nhặt. Quan trọng là hành giả tỉnh táo thấy rõ nghĩa của kinh đó.

Thứ ba là “y trí bất y thức”, trí ở đây là sự quán xét, là trí tuệ. Thức là vọng thức có sự phân biệt. “Y trí bất y thức” ở đây là y theo trí tuệ quán xét chứ không dùng vọng thức là thấy biết theo nghiệp để quán xét, bởi vọng thức chỉ mang tính tương đối ở một mức nào đó, và thường là mang lại sự sai lầm. Bởi vì chỉ có trí tuệ mới phá tan được sự vô minh, diệt ba độc và phiền não như phương châmcủa Phật giáo là “duy tuệ thị nghiệp”. Còn thức dù là thông minh, nhanh nhạy nhưng chỉ là tạm thời có được, vẫn còn bị vô minh che mờ không thể quán sát được ba độc đang hiển hiện trong chính mình, và thức không có công năng diệt được phiền não hay sự tham, sân, si đó. Vì thế, là người con Phật phải luôn dùng trí tuệ để nhìn nhận, để quán sát thì mới là sự đúng đắn, mới mang lại được sự an lạc.

Thứ tư là “y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh”. Liễu ở đây là thấy được, biết được. Quan điểm này chính là nên y theo những kinh điển đã được giảng giải, những bài kinh nhìn vào cho ta thấy được phương pháp tu tập đưa thẳng đến quả vị giải thoát viên mãn chứ không nên y theonhững kinh điển chưa có sự liễu nghĩa. Bởi vì theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền thì Đức Phật thuyết kinh tùy vào căn cơ của chúng sinh có cao có thấp khác biệt. Với những kinh điển đại thừa thì rất thâm sâu, chưa nói hết ý nghĩa thâm diệu mà thường là hướng đi thể nhập Nhân thừa[11], Thiên thừa [12], Bồ tát thừa [13],…nhưng tất cả đều hướng đến sự giải thoát. Ví dụ như Kinh Pháp Hoa là kinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạpý nghĩasâu sắc, khúc chiết mà thâm sâuTiêu biểu là phẩm “Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự” [14] (Phẩm thứ 23), theo đó có Bồ Tát Dược Vương đốt thân và hai tay để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức và được Đức Phật khen ngợi “lành thay”.

Đức Phật là đấng đại từ bi luôn yêu thương chúng sinh, sẽ không bao giờ ngồi nhìn bất kỳ ai đốt thân cúng dường rồi khen ngợi “lành thay” như vậy. Theo Lê Sỹ Minh Tùng trong Giải Mã Bí Ẩn Kinh Pháp Hoa“Khi hành giả nhập Tri Kiến Phật thì người đó phải có đủ trí tuệ để phá ngũ uẩnmà sắc uẩn tức là thân xác của con người. Có phá được sắc uẩn thì mới hy vọng phá được thọ uẩntưởng uẩnhành uẩn và thức uẩnVì vậy đốt thân để cúng dường Phật là phá sắc uẩn rồi tiếp tụcphá luôn các uẩn còn lại để tiến thẳng về quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác tức là thành Phật chớ không phải đốt cái xác thân tứ đại”[15]. Và đây chính là một khía cạnh trong ý kinh này, ý nghĩa của kinh còn rất rộng và tùy căn cơ cao thấp mà hiểu ý khác nhau. Nhưng vì không muốn hành giả hiểu sai, nên kinh điển Hán Tạng đã có “y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh” để y vào những kinh liễu nghĩa mà hành trì để thuận tiện hơn, rốt ráo hơn trong việc hành trì chánh pháp.

NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA SỰ KHÁC NHAU
Nguyên nhân
Như một quy luật tất yếu, mối liên hệ trong sự vận động của tồn tại xã hội và ý thức xã hội là một liên kết bền chặtlinh động và biện chứng. Các yếu tố xã hội đã tác động đến nội dung của triết thuyết mà ở đó nó phải có những cải biến sao cho đáp ứng được tính thích nghi, hợp thời và vận dụng hiệu quả với thời đại. Nội dung này được biểu hiện cụ thể thông qua sự phát triển hơn trong quan điểm “y pháp bất y nhân” từ kinh điển Pali đến kinh điển Hán Tạng. Từ đó, có thể thấy:

Thứ nhất, do sự tác động của bối cảnh xã hội – văn hóa nơi hình thành kinh điển Pali và Hán Tạng. Điều này thể hiện tính lịch sử tất yếu, khi mọi sự vận động trong thế giới khách quan đều chịu sự tác động của các yếu tố xung quanhtác động đến sự vận động của mình. Có thể thấy, kinh tạngPali xuất hiện từ khi Đức Phật còn tại thế được truyền bằng khẩu ngữ rồi sau này truyền bằng ngôn ngữ Pali, cho đến đầu Công nguyên được viết thành văn bản Pali. Còn kinh điển Hán Tạng xuất hiện sau này, được hình thành ở Trung Hoa do các vị Tổ kết tập từ kinh điển Pali sang Hán Tạng trong thời gian dài. Mà thời gian về sau thì xã hội ngày càng phát triển hơn, nhu cầu tâm linh con người cũng ngày càng cao. Cùng với văn hóa Trung Hoa cũng khác nhiều so với Ấn Độ. Và muốn tồn tạiPhật giáo luôn trong tinh thần “tùy duyên và phương tiện” thích ứng với xã hội nơi mà Phật giáo đi đến để có thể ăn sâu vào văn hóa, hòa thành một thể để cùng đồng hành với mỗi dân tộc. Hòa nhập là điều không thể thiếu, nhưng Phật giáo luôn trên tinh thần “hòa nhập nhưng không hòa tan”. Chỉ lấy đó làm phương tiện để “truyền trì chánh pháp” chứ không bị đồng hóa bởi nền văn hóahay bất kì tôn giáo nào.

Thứ hai, do sự phát triển của tri thức và lý tưởng phát triển Phật giáo. Thời đại là sự vận hànhchuyển đổi khôn lường, ở đó trí tuệ và tri thức con người ngày càng phát triển. Vì thế có nhiều vị Tăng sĩ tiền bối đã tinh cần nghiên cứu kinh điển từ lời Đức Phật dạy và diễn giải bằng sự hiểu biếtcủa mình. Lời kinh ngày càng được diễn giải phong phú, khúc chiết, cao thâm. Nhưng mục đíchcuối cùng vẫn không xa rời chánh pháp, không nằm ngoài mục đích giải thoát. Vì có những người không theo kịp tri thức đó, mong muốn họ đi đúng đường nên chư Tăng sĩ tiền bối mới đề xuấtthêm “y nghĩa bất y ngữ; y trí bất y thức; y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh”.

Ý NGHĨA
Thứ nhất, quan điểm “y pháp bất y nhân” trong kinh điển Pali hay Hán Tạng đều phản ánh, xác định trong tăng đoàn Phật giáo không có người gọi là thay thế Đức Phật để làm chỗ nương tựa cho người khác, làm lãnh đạo cho người khác là không có. Chế độ trong Phật giáo cũng như hiện đạichính là chế độ “Hiến pháp và pháp luật”. Vị đạo sư của chúng ta đã nhập Niết bàngiáo pháp của Ngài còn đó, giáo pháp của Ngài là người thầy, là ngọn đuốc tuệ chỉ đường cho hàng đệ tử đi đến sự an lạc và giải thoát.

Thứ hai, sự phát triển từ “y pháp bất y nhân” trong kinh điển Pali thành quan điểm “tứ y” trong kinh điển Hán Tạng đã góp phần làm phong phú hơn trong kho tàng kinh điển giáo lý Phật giáo. Để có thể thích ứng hơn với thời đại tri thức, từ đó đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu theo trình độcăn cơcủa mỗi người. Để hàng đệ tử Phật và những người tìm đến Phật giáo cảm thấy tâm đắc hơn khi nghiên cứu kho tàng kinh điển Phật giáo.

Thứ ba, quan điểm “y pháp bất y nhân” còn mang ý nghĩa không phân biệt dù Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Mà mục tiêu cuối cùng là trên tinh thần “duy trì mạnh mạch Phật pháp” hay “truyền trì chánh pháp” nhưng giải thoát là tối thượng. Bởi vì pháp là nguyên lý vận hành của vũ trụ, là nguyên lý tư duy được Đức Phật dùng trí tuệ siêu việt của một đấng giác ngộ thấy được. Và Ngài đã dùng cuộc đời của mình để truyền bá chánh pháp đó, để dẫn dắt chúng sinh ra khỏi vô minhđau khổ. Là đệ tử của Ngài, chúng ta phải có trách nhiệm nghiên cứuthực hành tu tập để truyền bá chánh pháp. Bởi vì chánh pháp dù diễn đạt bằng văn tự hay ngôn từ thế nào cũng sẽ đưa đến mục đích cuối cùng là hạnh phúc và giải thoát.

LỜI KẾT
Có thể thấy, lúc đầu xuất hiện quan điểm “y pháp bất y nhân” chính là bài kinh Đức Phật khuyên các Tỳ kheo “Này các Tỳ Kheo, hãy nương tựa mình và nương tựa pháp” trong kinh điển Pali. Sau đó Tôn giả A-nan đã nhắc lại quan điểm này trong bài Kinh Gopaka Moggallana với mong muốn cho mọi người biết rằng tư tưởng trong Phật giáo là tư tưởng lấy pháp làm chuẩn chứ không phải lấy con người làm chuẩn. Sau này quan điểm “y pháp bất y nhân” trong kinh điển Hán Tạng đã hình thành quan điểm “tứ y” “1) y pháp bất y nhân, (2) y nghĩa bất y ngữ, (3) y trí bất y thức, (4) y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh”. Quan điểm này xuất hiện rất trễ và sau. Nhưng điều này đã chứng minh sự phát triển về tư tưởng và quan điểm của Phật giáo sau này. Đó là một điều không hề sai trái, và điều đó cũng chỉ để hợp thức hóa cũng như thích ứng với văn hóa – xã hội mà Phật pháp đang ở đó để truyền trì chánh pháp.

Chú thích:
[1] HT. Thích Minh Châu (dịch, 2012), Kinh Trung bộ, Tập I, Nxb. Tôn giáo, tr.218
[2] Gồm tham, sân, si.
[3] HT. Thích Minh Châu (dịch, 2020), Kinh Trường bộ, tập 1, Nxb. Hồng Đức.
[4] Đại Tạng Kinh Việt NamTrường Bộ I, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (ấn hành), 1991, tr.584
[5] HT. Thích Minh Châu (dịch, 2012), Kinh Trung bộ, Tập II, Nxb. Tôn giáo, tr.331-334.
[6] HT. Thích Minh Châu (dịch), Sđd, tr.331
[7] HT. Thích Minh Châu (dịch), Sđd, tr.332
[8] HT. Thích Minh Châu (dịch), Sđd, tr.333
[9] HT. Thích Minh Châu (dịch, 2020), Kinh Trường Bộ, tập 1, Nxb. Hồng Đức.
[10] TT. Thích Hạnh Bình (2021), Phương pháp nghiên cứu Phật học, Nxb. Hồng Đức, tr.162
[11] Tức là giáo pháp dạy chúng ta tu để có được lợi ích thiết thực ngay trong đời này và cả đờisau.
[12] Giáo pháp dạy chúng ta tu để được sanh về cõi trời.
[13] Tức giáo pháp dạy chúng ta tu vừa lợi mình vừa lợi người, cuối cùng đều đi đến giác ngộ giải thoát.
[14] HT. Thích Trí Tịnh (dịch, 2007), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb. Tôn giáo, tr.500-501.
[15] Lê Sỹ Minh Tùng, Giải Mã Bí Ẩn Kinh Pháp Hoa, truy xuất từ: https://thuvienhoasen.org/a22435/giai-ma-bi-an-kinh-phap-hoa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 44)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 176)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 209)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 229)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 296)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 212)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 261)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 367)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 335)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 314)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 401)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 628)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 491)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 495)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 595)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 761)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 855)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 854)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 743)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 718)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 723)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 821)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 843)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 946)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 730)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 623)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 719)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 833)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 724)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 716)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 831)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 862)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 831)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 880)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 911)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 899)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1105)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 963)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1687)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1076)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1215)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 960)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1222)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1126)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1134)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1290)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1575)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2046)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1110)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1361)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1103)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 959)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1070)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1107)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1541)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1298)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1303)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1033)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1188)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant