Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tăng Đoàn Là Gì?

08 Tháng Giêng 202416:40(Xem: 911)
Tăng Đoàn Là Gì?
Tăng Đoàn Là Gì?

Tsenshap Serkong Rinpoche thứ Hai, Matt Lindén

Lozang Ngodrub  
Võ Thư Ngân 


khat thuc

Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật, những người được gọi là tỳ kheo (bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), hay chư Tăng Ni. Ngày nay, khi Phật giáo đã lan rộng khắp thế giới phương Tây, thì việc cộng đồng Phật tử nói chung, hoặc thậm chí chỉ một nhóm nhỏ của các cư sĩ tại giatrong một trung tâm Phật pháp được xem là Tăng đoàn, là điều khá phổ biến.

Nguồn Gốc Của Tăng Đoàn

Sau khi Đức Phật thành đạo, Kinh Chuyển Pháp Luân hay Dharmachakrapravartana Sutra cho biếtrằng Ngài đã thuyết bài Pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế cho năm người bạn cũ, đã cùng tu pháp tu khổ hạnh với Ngài trong một vài năm. Với khai thị này, cả năm vị đầu đà đều trở thành đệ tử của Ngài, và trong số đó, Kiều Trần Như (Kaundinya) đã đạt quả vị A la hán, bậc giải thoát. Vài ngày sau, trong khi thuyết giảng về tánh Không của bản ngã, hay bản ngã không thể tồn tại theo cách bất khả, thì những vị đầu đà khác cũng đều đạt được quả vị A la hán. Do đó, năm vị đệ tử này đã trở thành những thành viên đầu tiên của Tăng đoàn, hay chư Tăng đầu tiên trong nhà Phật.

Sau đó, Đức Phật đã trải qua quãng đời còn lại, tổng cộng khoảng 45 năm, để truyền bá giáo phápmà Ngài đã khám phá ra, trong khi các đệ tử của Ngài cũng đi đến các làng mạc và thị trấn trên khắp vùng đồng bằng phía Bắc Ấn Độ để truyền bá thông điệp của Ngài. Đức Phật đã nhanh chóng thu hút nhiều tín đồ từ nhiều tầng lớp trong xã hội: các đạo sư tâm linh khác, các nhà vua và hoàng hậu, nông dân và đồ tể, v.v... Trong khi phần lớn các đệ tử không muốn từ bỏ đời sống thế gian, những người muốn rời bỏ đời sống cư sĩ và gia nhập Tăng đoàn đều được hoan nghênh. Các đệ tửtại gia, những người tiếp tục làm việc và lập gia đình, đã hỗ trợ vấn đề ăn mặc cho Tăng đoàn.

Theo thời gian, khi ngày càng có nhiều người chính thức đi theo Đức Phật, thì điều cần thiết là phải lập ra quy tắc cho đệ tử tuân theo, để tạo ra cộng đồng tâm linh hài hòa. Giới luật đã được thành lập khi cần thiết, thông qua quá trình thử nghiệm và sai sót, để ứng phó với sự cố với kết quả không như ý đã xảy ra trong Tăng đoàn. Vào cuối đời của Đức Phật, đã có hàng trăm giới luật cho chư Tăng Ni.

Truyền Giới Xuất Gia Cho Phụ Nữ

Vào lúc đầuĐức Phật chỉ thu nhận nam giới vào hàng ngũ Phật tử. Năm năm sau khi thành lậpTăng lữ, người dì của Đức Phật là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di  (Mahaprajapati Gautami) đã yêu cầu Ngài cho bà xuất gia làm ni cô, nhưng Ngài đã từ chối. Tuy nhiênMa Ha Ba Xà Ba Đềkhông hề nao núng, và quyết định cùng với 500 phụ nữ khác cạo đầu và mặc áo cà sa vàng, đi theoĐức Phật.

Ma Ha Ba Xà Ba Đề dâng lên hai thỉnh cầu nữa với Đức Phật, và mỗi lần Đức Phật đều từ chối, không cho họ xuất gia. Lần thứ tư, A Nan (Ananda), em họ của Đức Phật, đã thay mặt bà thỉnh cầu, và hỏi Ngài liệu phụ nữ có khả năng để tu tập trên đường tu và thành tựu giác ngộ như nam giới hay không, và Đức Phật đã khẳng định điều này. Sau đó, A Nan đề nghị rằng việc phụ nữ trở thànhni cô là tốt, và Đức Phật đã cho phép các nữ đệ tử xuất gia.

Tăng Đoàn Thông Thường Và Tăng Đoàn Thánh Nhân

Thông thường thì thuật ngữ Tăng đoàn được dùng để chỉ hai nhóm tỳ kheo ( bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), chư Tăng Ni noi theo lời dạy của Đức PhậtThuật ngữ bhikshu thật ra có nghĩa là "người ăn xin", và đã được sử dụng, bởi vì đúng ra thì cộng đồng xuất gia phải từ bỏ hầu hết của cải vật chất và lang thang từ nơi này đến nơi khácphụ thuộc vào người khác để kiếm ăn. Phải có tối thiểu bốn vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, hoặc bốn vị Sa di hay Sa di ni, bất kể mức độ ý thức hay chứng ngộ của họ ra sao, để tạo ra một Tăng đoànChúng ta gọi đây là Tăng đoàn thông thường. Ngoài ra còn có Tăng đoàn thánh nhân, dùng để chỉ những cá nhân, đã xuất gia hay chưa xuất gia, đã thật sự thành tựu một số chứng ngộ trên đường tu nhà Phật.

Điều quan trọng là phải phân biệt giữa Tăng đoàn thông thường và Tăng đoàn thánh nhân. Tuy có rất nhiều Tăng Ni bình thường xuất sắc, nhưng có thể có những người cũng bị rối loạn cảm xúcnhư chúng ta - và điều đó có thể khiến ta thắc mắc tại sao mình nên quy y với họ. Vì vậy, là một trong Tam BảoTăng đoàn thánh nhân là Bảo thật sự để mình quy y, vì chư vị là những người thật sự có thể giúp mình đi đúng hướng.

Phẩm Chất Của Tăng Đoàn

Vậy thì Tăng đoàn có những phẩm chất nào mà chúng ta muốn tự mình phát triển?

  1. Khi thuyết Pháp thì họ không chỉ lặp lại những điều đã học từ sách vở, mà nói từ kinh nghiệmthực thụ của chính mình, và điều này thật sự tạo ra cảm hứng.
  2. Mong muốn duy nhất của họ là giúp đỡ người khác, và họ thực hành những gì họ thuyết giảng. Hãy nghĩ về một người hút thuốc mà lại mắng chúng ta về sự nguy hiểm của việc hút thuốc, thì ta sẽ thật sự tự hỏi tại sao mình nên làm theo lời khuyên của họ, đúng không? Vì lẽ đó, Tăng đoàn luôn chân thành trong những việc họ làm, nên chúng ta có thể thật sự tin tưởng họ.
  3. Khi ở cạnh người xấu, thường thì thậm chí ta không nhận ra rằng bản thân mình cũng đã bị lây những tính xấu của họ. Tương tự như vậy, nếu như chơi với bạn tốt, thì ngay cả khi không cần cố gắng nhiều, ta sẽ nhanh chóng có được những tính tốt. Vì vậyTăng đoàn có ảnh hưởng rất tốt đối với mình, để cải thiện việc tu tập của chúng ta.

Tầm Quan Trọng Của Tăng Đoàn

Đức Phật đã nhập niết bàn khoảng 2500 năm trước, để lại giáo huấn của Ngài, đó là Pháp, để chúng ta tu tập. Tất cả những điều này chính là Phật pháp, nhưng nếu muốn tu tập tốt, thì phải có những tấm gương đáng tin cậy, những người đã thật sự học hỏinghiên cứu và thực hành giáo huấn của Đức Phật, và đạt được một vài mục tiêu của giáo huấn ấy, để giúp đỡ và hướng dẫn chúng taCộng đồng của những người như vậy chính là Tăng đoàn.

Ngày nay, chúng ta thường xem những người nổi tiếng là tấm gương của mình, như các nam và nữ diễn viên, người mẫu, ca sĩ và vận động viên thể thao. Nhưng những người này có vấn đề riêng của họ, đúng không? Chúng ta biết rằng đời tư của họ thường rất lộn xộn! Không chỉ vậy, mà khi bị ám ảnh vì những người nổi tiếng và đời sống của họ, thì chúng ta chỉ thường tán gẫu với bạn bè, thậm chí còn chấp thủ nhiều hơn bình thường về sự tham ái về vật chất; nên những hoạt động này không thật sự mang lại cho tự thân hay tha nhân bất kỳ lợi lạc hay hạnh phúc chân thật nào. Mặt khác, Tăng đoàn là những người đã đoạn trừ một số vấn đề ở mức độ nào đó, không phải đó là điều cao cả hay sao, và họ đang tu tập để đoạn trừ phần còn lại. Nếu chúng ta cũng muốn loại bỏvấn đề của chính mình, thì việc noi gương của họ không phải là điều hợp lý hay sao?

Nhờ có Tăng đoàn mà ngày nay, trong thế giới hiện đại này, chúng ta có những giáo huấn tuyệt vờicủa Đức Phật được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tăng đoàn truyền cảm hứng cho chúng ta, để mình nhìn những vấn đề trước mắt xa hơn, và thấy rằng có một con đường giúp mình hoàn toàn thoát khổ. Tăng đoàn không chỉ truyền cảm hứng cho chúng ta, mà còn hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ mình trên mỗi một bước trên đường tu. Đây là lý do mà đôi khi người ta nói rằng nếu không có Tăng đoàn, thì không có đạo Phật.

Tóm Tắt

Làm thế nào để chọn một tấm gương tốt trong đời sống? Mặc dù chúng ta có thể không gặp một thành viên thật sự trong Tăng đoàn, một người có thành tựu thật sự, một Tăng đoàn thánh nhân, nhưng vẫn có thể gặp những người có kinh nghiệm hơn về giáo pháp, và có được nguồn cảm hứngtừ họ. Khi nhìn thấy tấm gương của họ, ta sẽ cảm thấy khuyến khích để noi theo bước của họ.

Nhờ sự cống hiến của chư Tăng Ni, Tăng đoàn thông thường, mà giáo pháp đã lan truyền khắp thế giới. Giống như Đức Phật được ví như một y sĩ và Pháp là y dược, thì Tăng đoàn giống như những y tá khuyến khích và hướng dẫn mình trên đường tu, khi chúng ta nỗ lực hướng về tự do, để thoát khỏi tất cả các vấn đề của mình mãi mãi.

Tsenshap Serkong Rinpoche thứ Hai, Matt Lindén
Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ; 
Võ Thư Ngân hiệu đính.


Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật, những người được gọi là tỳ kheo (bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), hay chư Tăng Ni. Ngày nay, khi Phật giáo đã lan rộng khắp thế giới phương Tây, thì việc cộng đồng Phật tử nói chung, hoặc thậm chí chỉ một nhóm nhỏ của các cư sĩ tại giatrong một trung tâm Phật pháp được xem là Tăng đoàn, là điều khá phổ biến.

Nguồn Gốc Của Tăng Đoàn

Sau khi Đức Phật thành đạo, Kinh Chuyển Pháp Luân hay Dharmachakrapravartana Sutra cho biếtrằng Ngài đã thuyết bài Pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế cho năm người bạn cũ, đã cùng tu pháp tu khổ hạnh với Ngài trong một vài năm. Với khai thị này, cả năm vị đầu đà đều trở thành đệ tử của Ngài, và trong số đó, Kiều Trần Như (Kaundinya) đã đạt quả vị A la hán, bậc giải thoát. Vài ngày sau, trong khi thuyết giảng về tánh Không của bản ngã, hay bản ngã không thể tồn tại theo cách bất khả, thì những vị đầu đà khác cũng đều đạt được quả vị A la hán. Do đó, năm vị đệ tử này đã trở thành những thành viên đầu tiên của Tăng đoàn, hay chư Tăng đầu tiên trong nhà Phật.

Sau đó, Đức Phật đã trải qua quãng đời còn lại, tổng cộng khoảng 45 năm, để truyền bá giáo phápmà Ngài đã khám phá ra, trong khi các đệ tử của Ngài cũng đi đến các làng mạc và thị trấn trên khắp vùng đồng bằng phía Bắc Ấn Độ để truyền bá thông điệp của Ngài. Đức Phật đã nhanh chóng thu hút nhiều tín đồ từ nhiều tầng lớp trong xã hội: các đạo sư tâm linh khác, các nhà vua và hoàng hậu, nông dân và đồ tể, v.v... Trong khi phần lớn các đệ tử không muốn từ bỏ đời sống thế gian, những người muốn rời bỏ đời sống cư sĩ và gia nhập Tăng đoàn đều được hoan nghênh. Các đệ tửtại gia, những người tiếp tục làm việc và lập gia đình, đã hỗ trợ vấn đề ăn mặc cho Tăng đoàn.

Theo thời gian, khi ngày càng có nhiều người chính thức đi theo Đức Phật, thì điều cần thiết là phải lập ra quy tắc cho đệ tử tuân theo, để tạo ra cộng đồng tâm linh hài hòa. Giới luật đã được thành lập khi cần thiết, thông qua quá trình thử nghiệm và sai sót, để ứng phó với sự cố với kết quả không như ý đã xảy ra trong Tăng đoàn. Vào cuối đời của Đức Phật, đã có hàng trăm giới luật cho chư Tăng Ni.

Truyền Giới Xuất Gia Cho Phụ Nữ

Vào lúc đầuĐức Phật chỉ thu nhận nam giới vào hàng ngũ Phật tử. Năm năm sau khi thành lậpTăng lữ, người dì của Đức Phật là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di  (Mahaprajapati Gautami) đã yêu cầu Ngài cho bà xuất gia làm ni cô, nhưng Ngài đã từ chối. Tuy nhiênMa Ha Ba Xà Ba Đềkhông hề nao núng, và quyết định cùng với 500 phụ nữ khác cạo đầu và mặc áo cà sa vàng, đi theoĐức Phật.

Ma Ha Ba Xà Ba Đề dâng lên hai thỉnh cầu nữa với Đức Phật, và mỗi lần Đức Phật đều từ chối, không cho họ xuất gia. Lần thứ tư, A Nan (Ananda), em họ của Đức Phật, đã thay mặt bà thỉnh cầu, và hỏi Ngài liệu phụ nữ có khả năng để tu tập trên đường tu và thành tựu giác ngộ như nam giới hay không, và Đức Phật đã khẳng định điều này. Sau đó, A Nan đề nghị rằng việc phụ nữ trở thànhni cô là tốt, và Đức Phật đã cho phép các nữ đệ tử xuất gia.

Tăng Đoàn Thông Thường Và Tăng Đoàn Thánh Nhân

Thông thường thì thuật ngữ Tăng đoàn được dùng để chỉ hai nhóm tỳ kheo ( bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), chư Tăng Ni noi theo lời dạy của Đức PhậtThuật ngữ bhikshu thật ra có nghĩa là "người ăn xin", và đã được sử dụng, bởi vì đúng ra thì cộng đồng xuất gia phải từ bỏ hầu hết của cải vật chất và lang thang từ nơi này đến nơi khácphụ thuộc vào người khác để kiếm ăn. Phải có tối thiểu bốn vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, hoặc bốn vị Sa di hay Sa di ni, bất kể mức độ ý thức hay chứng ngộ của họ ra sao, để tạo ra một Tăng đoànChúng ta gọi đây là Tăng đoàn thông thường. Ngoài ra còn có Tăng đoàn thánh nhân, dùng để chỉ những cá nhân, đã xuất gia hay chưa xuất gia, đã thật sự thành tựu một số chứng ngộ trên đường tu nhà Phật.

Điều quan trọng là phải phân biệt giữa Tăng đoàn thông thường và Tăng đoàn thánh nhân. Tuy có rất nhiều Tăng Ni bình thường xuất sắc, nhưng có thể có những người cũng bị rối loạn cảm xúcnhư chúng ta - và điều đó có thể khiến ta thắc mắc tại sao mình nên quy y với họ. Vì vậy, là một trong Tam BảoTăng đoàn thánh nhân là Bảo thật sự để mình quy y, vì chư vị là những người thật sự có thể giúp mình đi đúng hướng.

Phẩm Chất Của Tăng Đoàn

Vậy thì Tăng đoàn có những phẩm chất nào mà chúng ta muốn tự mình phát triển?

  1. Khi thuyết Pháp thì họ không chỉ lặp lại những điều đã học từ sách vở, mà nói từ kinh nghiệmthực thụ của chính mình, và điều này thật sự tạo ra cảm hứng.
  2. Mong muốn duy nhất của họ là giúp đỡ người khác, và họ thực hành những gì họ thuyết giảng. Hãy nghĩ về một người hút thuốc mà lại mắng chúng ta về sự nguy hiểm của việc hút thuốc, thì ta sẽ thật sự tự hỏi tại sao mình nên làm theo lời khuyên của họ, đúng không? Vì lẽ đó, Tăng đoàn luôn chân thành trong những việc họ làm, nên chúng ta có thể thật sự tin tưởng họ.
  3. Khi ở cạnh người xấu, thường thì thậm chí ta không nhận ra rằng bản thân mình cũng đã bị lây những tính xấu của họ. Tương tự như vậy, nếu như chơi với bạn tốt, thì ngay cả khi không cần cố gắng nhiều, ta sẽ nhanh chóng có được những tính tốt. Vì vậyTăng đoàn có ảnh hưởng rất tốt đối với mình, để cải thiện việc tu tập của chúng ta.

Tầm Quan Trọng Của Tăng Đoàn

Đức Phật đã nhập niết bàn khoảng 2500 năm trước, để lại giáo huấn của Ngài, đó là Pháp, để chúng ta tu tập. Tất cả những điều này chính là Phật pháp, nhưng nếu muốn tu tập tốt, thì phải có những tấm gương đáng tin cậy, những người đã thật sự học hỏinghiên cứu và thực hành giáo huấn của Đức Phật, và đạt được một vài mục tiêu của giáo huấn ấy, để giúp đỡ và hướng dẫn chúng taCộng đồng của những người như vậy chính là Tăng đoàn.

Ngày nay, chúng ta thường xem những người nổi tiếng là tấm gương của mình, như các nam và nữ diễn viên, người mẫu, ca sĩ và vận động viên thể thao. Nhưng những người này có vấn đề riêng của họ, đúng không? Chúng ta biết rằng đời tư của họ thường rất lộn xộn! Không chỉ vậy, mà khi bị ám ảnh vì những người nổi tiếng và đời sống của họ, thì chúng ta chỉ thường tán gẫu với bạn bè, thậm chí còn chấp thủ nhiều hơn bình thường về sự tham ái về vật chất; nên những hoạt động này không thật sự mang lại cho tự thân hay tha nhân bất kỳ lợi lạc hay hạnh phúc chân thật nào. Mặt khác, Tăng đoàn là những người đã đoạn trừ một số vấn đề ở mức độ nào đó, không phải đó là điều cao cả hay sao, và họ đang tu tập để đoạn trừ phần còn lại. Nếu chúng ta cũng muốn loại bỏvấn đề của chính mình, thì việc noi gương của họ không phải là điều hợp lý hay sao?

Nhờ có Tăng đoàn mà ngày nay, trong thế giới hiện đại này, chúng ta có những giáo huấn tuyệt vờicủa Đức Phật được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tăng đoàn truyền cảm hứng cho chúng ta, để mình nhìn những vấn đề trước mắt xa hơn, và thấy rằng có một con đường giúp mình hoàn toàn thoát khổ. Tăng đoàn không chỉ truyền cảm hứng cho chúng ta, mà còn hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ mình trên mỗi một bước trên đường tu. Đây là lý do mà đôi khi người ta nói rằng nếu không có Tăng đoàn, thì không có đạo Phật.

Tóm Tắt

Làm thế nào để chọn một tấm gương tốt trong đời sống? Mặc dù chúng ta có thể không gặp một thành viên thật sự trong Tăng đoàn, một người có thành tựu thật sự, một Tăng đoàn thánh nhân, nhưng vẫn có thể gặp những người có kinh nghiệm hơn về giáo pháp, và có được nguồn cảm hứngtừ họ. Khi nhìn thấy tấm gương của họ, ta sẽ cảm thấy khuyến khích để noi theo bước của họ.

Nhờ sự cống hiến của chư Tăng Ni, Tăng đoàn thông thường, mà giáo pháp đã lan truyền khắp thế giới. Giống như Đức Phật được ví như một y sĩ và Pháp là y dược, thì Tăng đoàn giống như những y tá khuyến khích và hướng dẫn mình trên đường tu, khi chúng ta nỗ lực hướng về tự do, để thoát khỏi tất cả các vấn đề của mình mãi mãi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5579)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5706)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5886)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5076)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4479)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4784)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4792)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5951)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3377)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5367)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 3026)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4253)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5359)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4349)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3415)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6460)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5450)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4696)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6341)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6192)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3990)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6095)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4703)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4853)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3481)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6362)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 5056)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3632)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3572)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5811)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4360)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6094)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5328)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3758)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3864)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3801)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3605)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5473)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4138)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4494)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5908)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3211)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3169)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3994)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4968)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3649)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3116)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4656)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4855)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3546)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4088)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4825)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3671)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3681)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5222)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4257)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3371)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3056)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3121)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3192)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant