Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tăng Đoàn Là Gì?

08 Tháng Giêng 202416:40(Xem: 902)
Tăng Đoàn Là Gì?
Tăng Đoàn Là Gì?

Tsenshap Serkong Rinpoche thứ Hai, Matt Lindén

Lozang Ngodrub  
Võ Thư Ngân 


khat thuc

Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật, những người được gọi là tỳ kheo (bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), hay chư Tăng Ni. Ngày nay, khi Phật giáo đã lan rộng khắp thế giới phương Tây, thì việc cộng đồng Phật tử nói chung, hoặc thậm chí chỉ một nhóm nhỏ của các cư sĩ tại giatrong một trung tâm Phật pháp được xem là Tăng đoàn, là điều khá phổ biến.

Nguồn Gốc Của Tăng Đoàn

Sau khi Đức Phật thành đạo, Kinh Chuyển Pháp Luân hay Dharmachakrapravartana Sutra cho biếtrằng Ngài đã thuyết bài Pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế cho năm người bạn cũ, đã cùng tu pháp tu khổ hạnh với Ngài trong một vài năm. Với khai thị này, cả năm vị đầu đà đều trở thành đệ tử của Ngài, và trong số đó, Kiều Trần Như (Kaundinya) đã đạt quả vị A la hán, bậc giải thoát. Vài ngày sau, trong khi thuyết giảng về tánh Không của bản ngã, hay bản ngã không thể tồn tại theo cách bất khả, thì những vị đầu đà khác cũng đều đạt được quả vị A la hán. Do đó, năm vị đệ tử này đã trở thành những thành viên đầu tiên của Tăng đoàn, hay chư Tăng đầu tiên trong nhà Phật.

Sau đó, Đức Phật đã trải qua quãng đời còn lại, tổng cộng khoảng 45 năm, để truyền bá giáo phápmà Ngài đã khám phá ra, trong khi các đệ tử của Ngài cũng đi đến các làng mạc và thị trấn trên khắp vùng đồng bằng phía Bắc Ấn Độ để truyền bá thông điệp của Ngài. Đức Phật đã nhanh chóng thu hút nhiều tín đồ từ nhiều tầng lớp trong xã hội: các đạo sư tâm linh khác, các nhà vua và hoàng hậu, nông dân và đồ tể, v.v... Trong khi phần lớn các đệ tử không muốn từ bỏ đời sống thế gian, những người muốn rời bỏ đời sống cư sĩ và gia nhập Tăng đoàn đều được hoan nghênh. Các đệ tửtại gia, những người tiếp tục làm việc và lập gia đình, đã hỗ trợ vấn đề ăn mặc cho Tăng đoàn.

Theo thời gian, khi ngày càng có nhiều người chính thức đi theo Đức Phật, thì điều cần thiết là phải lập ra quy tắc cho đệ tử tuân theo, để tạo ra cộng đồng tâm linh hài hòa. Giới luật đã được thành lập khi cần thiết, thông qua quá trình thử nghiệm và sai sót, để ứng phó với sự cố với kết quả không như ý đã xảy ra trong Tăng đoàn. Vào cuối đời của Đức Phật, đã có hàng trăm giới luật cho chư Tăng Ni.

Truyền Giới Xuất Gia Cho Phụ Nữ

Vào lúc đầuĐức Phật chỉ thu nhận nam giới vào hàng ngũ Phật tử. Năm năm sau khi thành lậpTăng lữ, người dì của Đức Phật là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di  (Mahaprajapati Gautami) đã yêu cầu Ngài cho bà xuất gia làm ni cô, nhưng Ngài đã từ chối. Tuy nhiênMa Ha Ba Xà Ba Đềkhông hề nao núng, và quyết định cùng với 500 phụ nữ khác cạo đầu và mặc áo cà sa vàng, đi theoĐức Phật.

Ma Ha Ba Xà Ba Đề dâng lên hai thỉnh cầu nữa với Đức Phật, và mỗi lần Đức Phật đều từ chối, không cho họ xuất gia. Lần thứ tư, A Nan (Ananda), em họ của Đức Phật, đã thay mặt bà thỉnh cầu, và hỏi Ngài liệu phụ nữ có khả năng để tu tập trên đường tu và thành tựu giác ngộ như nam giới hay không, và Đức Phật đã khẳng định điều này. Sau đó, A Nan đề nghị rằng việc phụ nữ trở thànhni cô là tốt, và Đức Phật đã cho phép các nữ đệ tử xuất gia.

Tăng Đoàn Thông Thường Và Tăng Đoàn Thánh Nhân

Thông thường thì thuật ngữ Tăng đoàn được dùng để chỉ hai nhóm tỳ kheo ( bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), chư Tăng Ni noi theo lời dạy của Đức PhậtThuật ngữ bhikshu thật ra có nghĩa là "người ăn xin", và đã được sử dụng, bởi vì đúng ra thì cộng đồng xuất gia phải từ bỏ hầu hết của cải vật chất và lang thang từ nơi này đến nơi khácphụ thuộc vào người khác để kiếm ăn. Phải có tối thiểu bốn vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, hoặc bốn vị Sa di hay Sa di ni, bất kể mức độ ý thức hay chứng ngộ của họ ra sao, để tạo ra một Tăng đoànChúng ta gọi đây là Tăng đoàn thông thường. Ngoài ra còn có Tăng đoàn thánh nhân, dùng để chỉ những cá nhân, đã xuất gia hay chưa xuất gia, đã thật sự thành tựu một số chứng ngộ trên đường tu nhà Phật.

Điều quan trọng là phải phân biệt giữa Tăng đoàn thông thường và Tăng đoàn thánh nhân. Tuy có rất nhiều Tăng Ni bình thường xuất sắc, nhưng có thể có những người cũng bị rối loạn cảm xúcnhư chúng ta - và điều đó có thể khiến ta thắc mắc tại sao mình nên quy y với họ. Vì vậy, là một trong Tam BảoTăng đoàn thánh nhân là Bảo thật sự để mình quy y, vì chư vị là những người thật sự có thể giúp mình đi đúng hướng.

Phẩm Chất Của Tăng Đoàn

Vậy thì Tăng đoàn có những phẩm chất nào mà chúng ta muốn tự mình phát triển?

  1. Khi thuyết Pháp thì họ không chỉ lặp lại những điều đã học từ sách vở, mà nói từ kinh nghiệmthực thụ của chính mình, và điều này thật sự tạo ra cảm hứng.
  2. Mong muốn duy nhất của họ là giúp đỡ người khác, và họ thực hành những gì họ thuyết giảng. Hãy nghĩ về một người hút thuốc mà lại mắng chúng ta về sự nguy hiểm của việc hút thuốc, thì ta sẽ thật sự tự hỏi tại sao mình nên làm theo lời khuyên của họ, đúng không? Vì lẽ đó, Tăng đoàn luôn chân thành trong những việc họ làm, nên chúng ta có thể thật sự tin tưởng họ.
  3. Khi ở cạnh người xấu, thường thì thậm chí ta không nhận ra rằng bản thân mình cũng đã bị lây những tính xấu của họ. Tương tự như vậy, nếu như chơi với bạn tốt, thì ngay cả khi không cần cố gắng nhiều, ta sẽ nhanh chóng có được những tính tốt. Vì vậyTăng đoàn có ảnh hưởng rất tốt đối với mình, để cải thiện việc tu tập của chúng ta.

Tầm Quan Trọng Của Tăng Đoàn

Đức Phật đã nhập niết bàn khoảng 2500 năm trước, để lại giáo huấn của Ngài, đó là Pháp, để chúng ta tu tập. Tất cả những điều này chính là Phật pháp, nhưng nếu muốn tu tập tốt, thì phải có những tấm gương đáng tin cậy, những người đã thật sự học hỏinghiên cứu và thực hành giáo huấn của Đức Phật, và đạt được một vài mục tiêu của giáo huấn ấy, để giúp đỡ và hướng dẫn chúng taCộng đồng của những người như vậy chính là Tăng đoàn.

Ngày nay, chúng ta thường xem những người nổi tiếng là tấm gương của mình, như các nam và nữ diễn viên, người mẫu, ca sĩ và vận động viên thể thao. Nhưng những người này có vấn đề riêng của họ, đúng không? Chúng ta biết rằng đời tư của họ thường rất lộn xộn! Không chỉ vậy, mà khi bị ám ảnh vì những người nổi tiếng và đời sống của họ, thì chúng ta chỉ thường tán gẫu với bạn bè, thậm chí còn chấp thủ nhiều hơn bình thường về sự tham ái về vật chất; nên những hoạt động này không thật sự mang lại cho tự thân hay tha nhân bất kỳ lợi lạc hay hạnh phúc chân thật nào. Mặt khác, Tăng đoàn là những người đã đoạn trừ một số vấn đề ở mức độ nào đó, không phải đó là điều cao cả hay sao, và họ đang tu tập để đoạn trừ phần còn lại. Nếu chúng ta cũng muốn loại bỏvấn đề của chính mình, thì việc noi gương của họ không phải là điều hợp lý hay sao?

Nhờ có Tăng đoàn mà ngày nay, trong thế giới hiện đại này, chúng ta có những giáo huấn tuyệt vờicủa Đức Phật được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tăng đoàn truyền cảm hứng cho chúng ta, để mình nhìn những vấn đề trước mắt xa hơn, và thấy rằng có một con đường giúp mình hoàn toàn thoát khổ. Tăng đoàn không chỉ truyền cảm hứng cho chúng ta, mà còn hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ mình trên mỗi một bước trên đường tu. Đây là lý do mà đôi khi người ta nói rằng nếu không có Tăng đoàn, thì không có đạo Phật.

Tóm Tắt

Làm thế nào để chọn một tấm gương tốt trong đời sống? Mặc dù chúng ta có thể không gặp một thành viên thật sự trong Tăng đoàn, một người có thành tựu thật sự, một Tăng đoàn thánh nhân, nhưng vẫn có thể gặp những người có kinh nghiệm hơn về giáo pháp, và có được nguồn cảm hứngtừ họ. Khi nhìn thấy tấm gương của họ, ta sẽ cảm thấy khuyến khích để noi theo bước của họ.

Nhờ sự cống hiến của chư Tăng Ni, Tăng đoàn thông thường, mà giáo pháp đã lan truyền khắp thế giới. Giống như Đức Phật được ví như một y sĩ và Pháp là y dược, thì Tăng đoàn giống như những y tá khuyến khích và hướng dẫn mình trên đường tu, khi chúng ta nỗ lực hướng về tự do, để thoát khỏi tất cả các vấn đề của mình mãi mãi.

Tsenshap Serkong Rinpoche thứ Hai, Matt Lindén
Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ; 
Võ Thư Ngân hiệu đính.


Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật, những người được gọi là tỳ kheo (bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), hay chư Tăng Ni. Ngày nay, khi Phật giáo đã lan rộng khắp thế giới phương Tây, thì việc cộng đồng Phật tử nói chung, hoặc thậm chí chỉ một nhóm nhỏ của các cư sĩ tại giatrong một trung tâm Phật pháp được xem là Tăng đoàn, là điều khá phổ biến.

Nguồn Gốc Của Tăng Đoàn

Sau khi Đức Phật thành đạo, Kinh Chuyển Pháp Luân hay Dharmachakrapravartana Sutra cho biếtrằng Ngài đã thuyết bài Pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế cho năm người bạn cũ, đã cùng tu pháp tu khổ hạnh với Ngài trong một vài năm. Với khai thị này, cả năm vị đầu đà đều trở thành đệ tử của Ngài, và trong số đó, Kiều Trần Như (Kaundinya) đã đạt quả vị A la hán, bậc giải thoát. Vài ngày sau, trong khi thuyết giảng về tánh Không của bản ngã, hay bản ngã không thể tồn tại theo cách bất khả, thì những vị đầu đà khác cũng đều đạt được quả vị A la hán. Do đó, năm vị đệ tử này đã trở thành những thành viên đầu tiên của Tăng đoàn, hay chư Tăng đầu tiên trong nhà Phật.

Sau đó, Đức Phật đã trải qua quãng đời còn lại, tổng cộng khoảng 45 năm, để truyền bá giáo phápmà Ngài đã khám phá ra, trong khi các đệ tử của Ngài cũng đi đến các làng mạc và thị trấn trên khắp vùng đồng bằng phía Bắc Ấn Độ để truyền bá thông điệp của Ngài. Đức Phật đã nhanh chóng thu hút nhiều tín đồ từ nhiều tầng lớp trong xã hội: các đạo sư tâm linh khác, các nhà vua và hoàng hậu, nông dân và đồ tể, v.v... Trong khi phần lớn các đệ tử không muốn từ bỏ đời sống thế gian, những người muốn rời bỏ đời sống cư sĩ và gia nhập Tăng đoàn đều được hoan nghênh. Các đệ tửtại gia, những người tiếp tục làm việc và lập gia đình, đã hỗ trợ vấn đề ăn mặc cho Tăng đoàn.

Theo thời gian, khi ngày càng có nhiều người chính thức đi theo Đức Phật, thì điều cần thiết là phải lập ra quy tắc cho đệ tử tuân theo, để tạo ra cộng đồng tâm linh hài hòa. Giới luật đã được thành lập khi cần thiết, thông qua quá trình thử nghiệm và sai sót, để ứng phó với sự cố với kết quả không như ý đã xảy ra trong Tăng đoàn. Vào cuối đời của Đức Phật, đã có hàng trăm giới luật cho chư Tăng Ni.

Truyền Giới Xuất Gia Cho Phụ Nữ

Vào lúc đầuĐức Phật chỉ thu nhận nam giới vào hàng ngũ Phật tử. Năm năm sau khi thành lậpTăng lữ, người dì của Đức Phật là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di  (Mahaprajapati Gautami) đã yêu cầu Ngài cho bà xuất gia làm ni cô, nhưng Ngài đã từ chối. Tuy nhiênMa Ha Ba Xà Ba Đềkhông hề nao núng, và quyết định cùng với 500 phụ nữ khác cạo đầu và mặc áo cà sa vàng, đi theoĐức Phật.

Ma Ha Ba Xà Ba Đề dâng lên hai thỉnh cầu nữa với Đức Phật, và mỗi lần Đức Phật đều từ chối, không cho họ xuất gia. Lần thứ tư, A Nan (Ananda), em họ của Đức Phật, đã thay mặt bà thỉnh cầu, và hỏi Ngài liệu phụ nữ có khả năng để tu tập trên đường tu và thành tựu giác ngộ như nam giới hay không, và Đức Phật đã khẳng định điều này. Sau đó, A Nan đề nghị rằng việc phụ nữ trở thànhni cô là tốt, và Đức Phật đã cho phép các nữ đệ tử xuất gia.

Tăng Đoàn Thông Thường Và Tăng Đoàn Thánh Nhân

Thông thường thì thuật ngữ Tăng đoàn được dùng để chỉ hai nhóm tỳ kheo ( bhikshus) và tỳ kheo ni (bhikshunis), chư Tăng Ni noi theo lời dạy của Đức PhậtThuật ngữ bhikshu thật ra có nghĩa là "người ăn xin", và đã được sử dụng, bởi vì đúng ra thì cộng đồng xuất gia phải từ bỏ hầu hết của cải vật chất và lang thang từ nơi này đến nơi khácphụ thuộc vào người khác để kiếm ăn. Phải có tối thiểu bốn vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, hoặc bốn vị Sa di hay Sa di ni, bất kể mức độ ý thức hay chứng ngộ của họ ra sao, để tạo ra một Tăng đoànChúng ta gọi đây là Tăng đoàn thông thường. Ngoài ra còn có Tăng đoàn thánh nhân, dùng để chỉ những cá nhân, đã xuất gia hay chưa xuất gia, đã thật sự thành tựu một số chứng ngộ trên đường tu nhà Phật.

Điều quan trọng là phải phân biệt giữa Tăng đoàn thông thường và Tăng đoàn thánh nhân. Tuy có rất nhiều Tăng Ni bình thường xuất sắc, nhưng có thể có những người cũng bị rối loạn cảm xúcnhư chúng ta - và điều đó có thể khiến ta thắc mắc tại sao mình nên quy y với họ. Vì vậy, là một trong Tam BảoTăng đoàn thánh nhân là Bảo thật sự để mình quy y, vì chư vị là những người thật sự có thể giúp mình đi đúng hướng.

Phẩm Chất Của Tăng Đoàn

Vậy thì Tăng đoàn có những phẩm chất nào mà chúng ta muốn tự mình phát triển?

  1. Khi thuyết Pháp thì họ không chỉ lặp lại những điều đã học từ sách vở, mà nói từ kinh nghiệmthực thụ của chính mình, và điều này thật sự tạo ra cảm hứng.
  2. Mong muốn duy nhất của họ là giúp đỡ người khác, và họ thực hành những gì họ thuyết giảng. Hãy nghĩ về một người hút thuốc mà lại mắng chúng ta về sự nguy hiểm của việc hút thuốc, thì ta sẽ thật sự tự hỏi tại sao mình nên làm theo lời khuyên của họ, đúng không? Vì lẽ đó, Tăng đoàn luôn chân thành trong những việc họ làm, nên chúng ta có thể thật sự tin tưởng họ.
  3. Khi ở cạnh người xấu, thường thì thậm chí ta không nhận ra rằng bản thân mình cũng đã bị lây những tính xấu của họ. Tương tự như vậy, nếu như chơi với bạn tốt, thì ngay cả khi không cần cố gắng nhiều, ta sẽ nhanh chóng có được những tính tốt. Vì vậyTăng đoàn có ảnh hưởng rất tốt đối với mình, để cải thiện việc tu tập của chúng ta.

Tầm Quan Trọng Của Tăng Đoàn

Đức Phật đã nhập niết bàn khoảng 2500 năm trước, để lại giáo huấn của Ngài, đó là Pháp, để chúng ta tu tập. Tất cả những điều này chính là Phật pháp, nhưng nếu muốn tu tập tốt, thì phải có những tấm gương đáng tin cậy, những người đã thật sự học hỏinghiên cứu và thực hành giáo huấn của Đức Phật, và đạt được một vài mục tiêu của giáo huấn ấy, để giúp đỡ và hướng dẫn chúng taCộng đồng của những người như vậy chính là Tăng đoàn.

Ngày nay, chúng ta thường xem những người nổi tiếng là tấm gương của mình, như các nam và nữ diễn viên, người mẫu, ca sĩ và vận động viên thể thao. Nhưng những người này có vấn đề riêng của họ, đúng không? Chúng ta biết rằng đời tư của họ thường rất lộn xộn! Không chỉ vậy, mà khi bị ám ảnh vì những người nổi tiếng và đời sống của họ, thì chúng ta chỉ thường tán gẫu với bạn bè, thậm chí còn chấp thủ nhiều hơn bình thường về sự tham ái về vật chất; nên những hoạt động này không thật sự mang lại cho tự thân hay tha nhân bất kỳ lợi lạc hay hạnh phúc chân thật nào. Mặt khác, Tăng đoàn là những người đã đoạn trừ một số vấn đề ở mức độ nào đó, không phải đó là điều cao cả hay sao, và họ đang tu tập để đoạn trừ phần còn lại. Nếu chúng ta cũng muốn loại bỏvấn đề của chính mình, thì việc noi gương của họ không phải là điều hợp lý hay sao?

Nhờ có Tăng đoàn mà ngày nay, trong thế giới hiện đại này, chúng ta có những giáo huấn tuyệt vờicủa Đức Phật được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tăng đoàn truyền cảm hứng cho chúng ta, để mình nhìn những vấn đề trước mắt xa hơn, và thấy rằng có một con đường giúp mình hoàn toàn thoát khổ. Tăng đoàn không chỉ truyền cảm hứng cho chúng ta, mà còn hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ mình trên mỗi một bước trên đường tu. Đây là lý do mà đôi khi người ta nói rằng nếu không có Tăng đoàn, thì không có đạo Phật.

Tóm Tắt

Làm thế nào để chọn một tấm gương tốt trong đời sống? Mặc dù chúng ta có thể không gặp một thành viên thật sự trong Tăng đoàn, một người có thành tựu thật sự, một Tăng đoàn thánh nhân, nhưng vẫn có thể gặp những người có kinh nghiệm hơn về giáo pháp, và có được nguồn cảm hứngtừ họ. Khi nhìn thấy tấm gương của họ, ta sẽ cảm thấy khuyến khích để noi theo bước của họ.

Nhờ sự cống hiến của chư Tăng Ni, Tăng đoàn thông thường, mà giáo pháp đã lan truyền khắp thế giới. Giống như Đức Phật được ví như một y sĩ và Pháp là y dược, thì Tăng đoàn giống như những y tá khuyến khích và hướng dẫn mình trên đường tu, khi chúng ta nỗ lực hướng về tự do, để thoát khỏi tất cả các vấn đề của mình mãi mãi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3196)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3586)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4102)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5317)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2722)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6234)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3132)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3189)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3398)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3318)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3385)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4646)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2794)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5314)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3980)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3923)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3296)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4220)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5131)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3623)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6869)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 4055)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3297)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3183)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 3048)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5958)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4725)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3549)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2948)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3367)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4508)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5811)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6727)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3806)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4617)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4695)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 4053)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3479)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4758)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6158)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5920)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3716)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4764)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4534)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4596)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4357)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4683)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8291)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 4011)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5806)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5303)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6932)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6282)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6091)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5913)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6389)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6862)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 5048)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5659)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant