Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hãy Tinh Tấn Không Ngừng

03 Tháng Hai 201513:50(Xem: 10266)
Hãy Tinh Tấn Không Ngừng

 

Hãy Tinh Tấn Không Ngừng

Thiền Sư Webu Sayadaw
Giác Niệm dịch



Hãy Tinh Tấn Không NgừngSơ lược tiểu sư Thiền Sư Webu Sayadaw (1896-1977):

Ngài Thiền sư Webu Sayadaw sinh vào ngày 17/2/1896 tại làng Ingyinbin, gần Shwebo miền thượng Miến Điện. Ngài thọ giới Sa di lúc 9 tuổi, thọ đại giới lúc 20 tuổi. Ngài đến Mandalay để học tại ngôi chùa nổi tiếng Masoyein, trường Đại học Phật giáo vào thời đó. Bảy năm sau khi thọ đại giới, Ngài rời chùa Masoyein, đi đến nơi xa vắng hành thiền trong 4 năm. Ngài thực hành hạnh đầu đà bằng cách "không nằm" trong suốt đời tu. Ngài dạy thiền quán niệm hơi thở (anapana sati). Hầu hết những bài giảng được ghi lại trong quyển "The Essential Practice" là từ chuyến đi hoằng pháp tại vùng hạ Miến Điện. Những người trả lời các câu hỏi là những người ngồi phía trước gần Thiền sư.
Thiền sư Webu Sayadaw không phải là học giả, Ngài chỉ hướng dẫn pháp hành. Qua sự đối đáp giữa Thiền sưthính chúng, chúng ta thấy tính tình giản dị, lòng nhẫn nại, tính hài hước và đức tính khiêm nhường của Ngài. Đây là những điều mà chúng ta không thể cảm nhận bằng cách đọc sách. Cũng như qua những câu vấn đáp giúp chúng ta một ý niệm đại cương về đạo Phật được thực hành như thế nào tại nước Miến Điện ngày nay.
Thiền sư Webu Sayadaw viên tịch ngày 26/6/1977 tại thiền viện ở Ingyinbin, quê hương của Ngài. Người Phật tử Miến Điện tin tưởng rằng Ngài là một vị A La Hán.

Webu Sayadaw: Quý vị đã giữ giới. Bây giờ quý vị cần tự mình làm cho giới được hoàn hảo, đến mức độ cao nhứt. Chỉ khi nào quý vị hoàn toàn giữ giới đến mức tối đa thì lúc đó quý vị mới thành đạt được các ước mơ của quý vị. Quý vị sẽ hạnh phúc bây giờ và trong tương lai.

Không có cách nào khác hơn là những lời Phật dạy mới có thể đem lại cho quý vị hạnh phúc thật sự, trong hiện tại và trong phần còn lại của vòng luân hồi, vòng sinh tử tái diễn mãi mãi. Lời Phật dạy đước trân trọng lưu giữ trong Tam Tạng Kinh. Tam Tạng Kinh rất phong phú. Nếu chọn lấy cốt tủy của Tam Tạng Kinh, chúng ta sẽ tìm thấy ba mươi bảy yếu tố giác ngộ [*]. Cốt tủy của 37 yếu tố giác ngộ là tám chi của Bát Chánh Đạo. Cốt tủy của Bát Chánh Đạotam học – giới, định và tuệ. Cốt tủy của tam học là một Pháp.
[*] 37 Pháp Bồ Đề Phần: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo]

Nếu quý vị làm chủ được thân và tâm của quý vị, như hiện giờ, sẽ không có những hành động hay lời nói cộc cằn. Đây là giới cao thượng.

Nếu giới trở nên vững mạnh, tâm sẽ an định và mất tính thô cứng. Đây là tâm cao thượng hay tâm định.

Nếu tâm trở nên vững mạnh và trụ vào một điểm một thời gian lâu dài, quý vị sẽ nhận thấy rằng trong một thời điểm cực ngắn, vật chất (sắc) sanh diệt hàng tỉ tỉ lần. Nếu tâm (nama, danh) biết vật chất (rupa, sắc), nó biết rằng vật chất sanh và diệt hàng tỉ và tỉ lần trong một chớp mắt. Tuệ sanh diệt này được gọi là tuệ cao thượng.

Khi chúng ta thở vào hay thở ra, không khí vào và ra đụng vào nơi ở trong hay ở gần lỗ mũi. Giác quan ghi nhận sự xúc chạm của không khí. Sự xúc chạm là sắc , biết sự xúc chạm là danh, Vì vậy đừng đi lòng vòng hỏi thăm người khác về danh và sắc; quan sát hơi thở của quý vị, quý vị sẽ tự mình tìm thấy chúng.

Khi không khí đi vào, nó sẽ đụng (lổ mũi, gần lổ mũi). Khi không khí đi ra, nó sẽ đụng. Nếu quý vị biết sự đụng này một cách liên tục, thì tham, sân, và si không có cơ hội phát sanh. Ngọn lửa phiền não sẽ hạ bớt.

Quý vị không thể biết sư đụng của không khí trước khi nó thật sự xảy ra. Sau khi nó chấm dứt, quý vị không cảm thấy nó nửa. Chỉ khi nào không khí đi vào và đi ra, quý vị mới có thể cảm thấy sư đụng chạm. Điều này chúng tôi gọi là phút giây hiện tại.

Khi chúng ta cảm thấy sự đụng chạm của không khí, chúng ta biết rằng chỉ có danh và sắc(tâm và thân,vật chất). Chúng ta biết rằng không có "ta", không có người khác, không có đàn ông, không có phụ nữ, và chúng ta tự mình chứng ngộ rằng thực vậy, những điều Phật dạy là đúng. Chúng ta không cần phải hỏi người khác. Khi chúng ta biết hơi thở vào và hơi thở ra, không có "ta", không có "ngã".

Khi chúng ta biết được như vậy, cái biết của ta trong sáng; đây là chánh kiến. Chúng ta biết rằng trong giây phút đó không có gì khác hơn là danh và sắc, tâm và vật chất. Chúng ta cũng biết rằng tâm và vật chất là hai thực thể khác nhau. Thật vậy, nếu chúng ta biết phân biệt danh và sắc, chúng ta có tuệ phân tích danh sắc.

Nếu chúng ta biết sự đụng chạm của không khí khi nó xảy ra, tâm chúng ta thanh tịnh và nhờ đó mà chúng có được lợi ích. Đừng nghĩ rằng những lợi ích mà quý vị có được, dù chỉ trong giây phút, là ít. Đừng nghĩ rằng những người hành thiền không được lợi ích gì từ sự thực hành của họ. Bây giờ quý vị được sanh cõi hữu phúc, gặp được lời dạy của Phật, quý vị có thể đạt được nhiều lợi ích lớn. Đừng lo lắng gì về việc ăn uống, mà hãy hết sức tinh tấn.

Hiện giờ có phải là giờ lành không?

Đệ tử: Dạ phải, thưa Ngài.

Sayadaw: Đúng vậy! Những người tốt , có tâm cởi mở, tiếp nhậnthực hành lời dạy của đức Phật có thể thành đạt Niết Bàn giống như các thánh nhân trong quá khứ đã thực hành theo lời chỉ dẫn của đức Phật không?

Đệ tử: Dạ, thưa Ngài, họ có thể làm được.
Sayadaw: Như vậy, lời dạy của đức Phật còn tồn tại bao lâu?
Đệ tử: Dạ, năm ngàn năm.
Sayadaw: Bây giờ nói cho Sư nghe, bao nhiêu năm trong năm ngàn năm đã trôi qua?
Đệ tử: Dạ, chừng phân nửa thời gian.
Sayadaw: Vậy còn lại bao nhiêu năm?
Đệ tử: Thưa Ngài, chừng 2500 năm.
Sayadaw: Bây giờ con người sống chừng bao lâu?
Đệ tử: Dạ, chừng 100 năm.
Sayadaw: Ông mấy tuổi rồi?
Đệ tử: Thưa Ngài, tôi được 37 tuổi.
Sayadaw: Vậy ông còn sống bao nhiêu năm nửa?
Đệ tử: Thưa Ngài, 63 năm.
Sayadaw: Nhưng ông có chắc chắn ông sẽ sống được hết những năm còn lại không?
Đệ tử: Dạ, tôi không biết.
Sayadaw: Chính ông không biết ông còn sống được bao lâu nửa?
Đệ tử: Dạ, không thế nào biết rõ diều này chắc chắn được.
Sayadaw: Nhưng khi chúng ta sinh ra thì chúng ta có thể biết chắc là mình phải khổ vì già, bịnh, chết.
Đệ tử: Dạ phải.
Sayadaw: Chúng ta có thể yêu cầu già, bịnh, chết ngừng lại ít lâu, đi chỗ khác ít lâu được không?
Đệ tử: Dạ không.
Sayadaw: Không, chúng không bao giờ ngừng nghỉ. Chúng ta có thể nào kêu chúng ngưng hoạt động được không?
Đệ tử: Dạ thưa không thể được.
Sayadaw: Trong trường hợp đó, chắc chắnchúng ta phải chết.
Đệ tử: Dạ, chắc chắn là tất cả chúng ta đều phải chết.
Sayadaw: Chắc chắn tất cả chúng ta đều phải chết. Thế còn sống thì sao?
Đệ tử: Dạ, chúng ta không chắc chắn biết chúng ta còn sống được bao lâu nữa.
Sayadaw: Người có tuổi thọ là 30 sẽ chết khi tới 30 tuổi. Nếu tuổi thọ của ông là 40 hay 50, ông sẽ chết khi ông được 40 hay 50 tuổi. Khi người nào đó chết, chúng ta có thể làm cho họ sống lại không?
Đệ tử: Dạ không thể được.
Sayadaw: Tuy nhiên, ông đã sống được nhiều năm rồi, những năm đó đã qua rồi. Có điều gì mà ông chưa hoàn thành không?
Đệ tử: Niềm hạnh phúc của Đạo Quả và sự thành đạt Niết bàn.
Sayadaw: Phải rồi, ông chưa đắc Đạo và Quả, ông đã thất bại. Ông đã sử dụng tốt những năm đã trôi qua không, hay là ông đã hoang phí thời giờ của ông?
Đệ tử: Tôi đã lãng phí thời giờ của mình.
Sayadaw: Vậy thì đừng lãng phí thời giờ còn lại của ông. Đây là lúc ông cần hết sức cố gắng không ngừng; ông có thể chắc chắn rằng ông sẽ chết, nhưng ông không biết ông còn sống được bao lâu nữa. Có người sống rất lâu. Vài Đại đệ tử của đức Phật như Trưởng Lão Đại Ca DiếpTrưởng Lão Đại Kaccayana sống hơn 100 tuổi. Một số vị sống tới 80 tuổi. Để có thể sống lâu như vậy, chúng ta phải hết lòng kính trọng những người đáng kínhchúng ta phải rất khiêm nhường. Mấy ông có kính trọng cha mẹ không?
Đệ tử: Dạ có.
Sayadaw: Quý vị có kính trọng những người lớn tuổi hoặc có địa vị cao hơn quý vị không?
Đệ tử: Dạ, chúng tôi kính trọng những người lơnù tuổi hoặc có địa vị cao hơn chúng tôi. Chúng tôi cũng kính trọng ngay cả những người lớn hơn chúng tôi chỉ 1 ngày hoặc nửa ngày.
Sayadaw: Khi nào quý vị chào hỏi họ?
Đệ tử: Vào buổi tối, trước khi đi ngủ, chúng tôi lễ Phật và vào lúc đó chúng tôi cũng kính lễ những người lớn.
Sayadaw: Còn những lúc khác thì sao?
Đệ tử: Dạ, chúng tôi không làm như vậy vào những lúc khác.
Sayadaw:Quý vị nói rằng quý vị lễ phép chào hỏi những người lớn sau khi lễ Phật. Nhưng quý vị có kính trọng những người sống chung với quý vị và người cùng tuổi với quý vị không? Nếu Sư đặt nhiều túi $1000 dọc đường cho ai lượm lấy cũng được, sao quý vị có lấy một túi tiền không?
Đệ tử: Dạ, dỉ nhiên chúng tôi lấy thôi.
Sayadaw: Nếu quý vị tìm thấy túi tiền thứ nhì, quý vị có lấy không?
Đệ tử: Dạ, có.
Sayadaw: Nếu quý vị tìm thấy túi tiền thứ ba, quý vị lấy luôn phải không?
Đệ tử: Dạ, chúng tôi cũng lấy luôn.
Sayadaw: Sau khi lượm được một túi tiền, quý vị có muốn người khác lượm được tiền không?
Đệ tử: Dạ, chúng tôi không nghĩ như vậy.
Sayadaw: Nếu ông cùng đi với một người bạn, ông có để cho bạn tìm lấy túi tiền bằng suy nghĩ,"Tôi làm bộ như không thấy túi tiền đó. Đàng nào mình cũng lượm được một túi tiền rồi"? Ông có để bạn lượm túi tiền hay là ông chụp lấy túi tiền và bỏ chạy?
Đệ tử: Dạ, con sẽ chụp lấy hết tiền rồi bỏ chạy.
Sayadaw: Phải rồi, phải rồi, quý vị không dễ thương chút nào. Khi nói đến tiền là quý vị không chịu chia cho ai cả.

Nhưng mà quý vị nói quý vị luôn kính trọng và khiêm nhường bởi vì quý vị lễ Phật vào buổi tối. Nếu quý vị ấp ủ trong lòng ý nghĩ như, "Tại sao anh ta khá hơn mình? Sự hiểu biết của anh ta nhiều hơn mình?" thì tâm của quý vị còn đầy dẫy lòng tự hào. Nếu quý vị kính trọng cha mẹ, thầy, cũng như những người lớn tuổi hơn, khôn ngoan hơn hoặc có địa vị hơn, mà không tự hào, thì quý vị sẽ sống hơn 100 tuổi. Nếu quý vị kính trọng những người này, có phải là quý vị chỉ được 1000 đồng? Quý vị chỉ lượm được tiền thôi phải không?

Đệ tử: Dạ nhiều hơn là tiền nữa.
Sayadaw: Đúng vậy! Mặc dù quý vị biết điều gì thật sự quan trọng, quý vị không muốn cho ai 1000 đồng, nhưng quý vị chỉ muốn lượm tiền rồi bỏ chạy. Vì lòng thương xót chúng sinh, đức Phật đã dạy Giáo Pháp. Có phải mọi người ai cũng hiểu lời dạy của Phật không?
Đệ tử: Dạ, thưa Ngài, không phải ai cũng hiểu.
Sayadaw: Tại sao vậy?
Đệ tử: Dạ, có những người không chịu lắng nghe lời Phật dạy.
Sayadaw: Chỉ khi nào chính quý vị tự mình làm theo lời dạy của Đức Phật, quý vị mới có thể thành đạt: Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác, sự giác ngộ của một đệ tử trưởng, của một đại đệ tử, hay của một đệ tử A La Hán thường. Thông qua lời dạy của Phật, quý vị có thể hưởng được hạnh phúc ngay bây giờ, cái hạnh phúc sẽ ở lại với quý vị trong tương lai. Một hột lúa cần bao lâu mới nẩy mầm?
Đệ tử: Dạ, chỉ qua một đêm thôi.
Sayadaw: Chỉ cần một ngày cho hột lúa nẩy mầm. Bây giờ, quý vị giữ hột lúa nẩy mầm-tất nhiên đây phải là hột giống tốt-, nếu quý vị không gieo trồng thì nó có mọc lên không?
Đệ tử: Dạ thưa không.
Sayadaw: Mặc dầu quý vị có một hột giống chất lượng tốt, nếu quý vị không gieo trồng thì nó không mọc lên được. Lời dạy của Phật cũng giống như vậy, chỉ khi nào quý vi chấp nhận (hành theo) thì quý vị mới hiểu lời dạy của Ngài. Nếu quý vị học cách niệm biết sự phát sinh của thân- tâm (sắc- danh), quý vị biết được điều gì?
Đệ tử: Dạ, niệm biết nầy là vijja, là sự hiểu biết chân chánh.
Sayadaw: Người không sống theo lời dạy của Phật, quý vị gọi là gì?
Đệ tử: Dạ, đó là avijja, vô minh.
Sayadaw: Nếu quý vị sống suốt đời với sự hiểu biết chân chánh về Phật Pháp (vijja), thì sau khi chết quý vị sẽ đi về đâu?
Đệ tử: Dạ, tới những cảnh giới tốt đẹp.
Sayadaw: Điều gì sẽ xảy ra sau khi một người cả đời chỉ sống trong vô minh?
Đệ tử: Dạ, người đó sẽ xuống những cảnh giới thấp kém.
Sayadaw: Bây giờ, giả sử một người già 70 tuổi đang lễ Phật. Trong lúc lễ như vậy, ông không chú tâm vào Pháp, nhưng ông để tâm phóng đi chỗ nầy chỗ nọ. Nếu ông cụ nầy chết ngay vào lúc đó, ông sẽ tái sinh nơi nào?
Đệ tử: Ông sẽ đi xuống cảnh giới thấp.
Sayadaw: Thật vậy sao? Quý vị hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi trả lời. Ông cụ đang lễ Phật và đang hành thiền. Vậy ông sẽ đi đâu nếu ông chết ngay lúc đó?
Đệ tử: Dạ, ông cụ sẽ đi xuống những cảnh giới thấp.
Sayadaw: Tại sao vậy?
Đệ tử: Bạch Ngài, bởi vì tâm của ông phóng đi mọi nơi.
Sayadaw: Đúng vậy. Tâm của một người sống trong vô minh có những chất lượng nào?
Đệ tử: Đó là tham, sân, si.
Sayadaw: Tham là gì?
Đệ tử: Dạ, tham là ham muốn điều chi.
Sayadaw: Tham gồm có thích thú, bị lôi cuốn thu hút, ham muốn. Người chết với tâm ham muốn, ham thích sẽ tái sinh làm ngạ quỷ (ma đói). Còn sân là gì?
Đệ tử: Dạ, sân là hận thù.

Sayadaw: Đúng vậy, sân là nguyên nhân khiến quý vị đấu tranh với nhau. Tâm sân phát sinh bởi vì quý vị không đạt được những gì quý vị muốn và những gì có được là những gì quý vị không muốn. Nếu chết với tâm bất mãn, quý vị sẽ tái sinh vào địa ngục. Si là không biết gì về những lợi ích phát sinh nhờ bố thí, giữ giới, tham thiền. Nếu chết với tâm si, quý vị sẽ tái sinh làm thú. Không có ai, không có thượng đế, không có chư thiên, không có Phạm thiên tạo ra thân và tâm. Chúng phải chịu sự sanh diệt theo định luật thiên nhiên, như Đức Phật đã dạy. Nếu một người sắp chết chú tâm vào thân và tâm, thấy được sự sanh diệt của thân và tâm (danh sắc), thì theo lời Phật dạy, người đó sẽ tái sinh làm người, làm chư thiên, làm Phạm thiên. Nếu có người đang đi đến nơi họ muốn đi, người đó có cần hỏi đường người khác không?

Đệ tử: Dạ thưa không.
Sayadaw: Có cần hỏi người khác, "Tôi sống với trí tuệ hay trong vô minh?".
Đệ tử: Dạ thưa không.

Sayadaw: Thực vậy, không cần. Do đó, hãy hết sức cố gắng làm cho ba-la-mật mà quý vị đã tích lũy trong suốt vòng luân hồi trổ thành quả. Hãy tinh tấn không ngừng.

Hãy hành động như những bậc thiện trí thức thời xưa, sau khi được Đức Phật trực tiếp chỉ dạy, họ đã thực hành đến mục tiêu Niết-bàn. Nên biết rằng quý vị cũng được sinh vào cảnh giới thuận lợi, không gì có thể ngăn cản quý vị thực hành cho đến khi thành đạt Đạo, Quả và Niết-bàn.

Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành. Hãy phấn đấu với tâm vui vẻ và khi quý vị thành công, hãy thật sự hạnh phúc./.
Trích: "The Essential Practice, Dhamma Discourses of Venerable Webu Sayadaw",

Roger Bischoff dịch từ tiếng Miến Điện sang tiếng Anh, Giác Niệm dịch sang tiếng Việt.
-ooOoo-

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37943)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19710)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18810)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14397)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20214)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9586)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14443)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35708)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10731)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19812)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23296)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13432)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10814)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20328)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10694)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10050)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14952)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17781)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17709)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13253)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31280)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25921)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14051)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17593)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11057)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12362)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10538)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12349)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11854)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9676)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12429)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9266)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8555)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10033)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9806)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12109)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14546)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9962)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11266)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11053)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14201)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9974)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15303)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13169)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23199)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24172)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12698)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15532)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17892)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15178)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16666)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16230)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17779)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11686)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11715)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17951)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10884)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10582)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11420)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12142)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11112)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36505)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9030)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9753)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34819)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17357)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10308)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10537)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12263)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13735)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14756)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9222)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24979)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11711)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10383)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 16037)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15665)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14600)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13089)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12524)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14652)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18452)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9634)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18635)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18720)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19148)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18961)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11878)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13418)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48058)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11134)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13628)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13120)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11179)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12641)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11101)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31907)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11753)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
(Xem: 10199)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant