Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường Tịnh Độ

19 Tháng Giêng 201511:21(Xem: 8063)
Con Đường Tịnh Độ

CON ĐƯỜNG TỊNH ĐỘ
(Nhật ký vãng sanh)

Chấp tay nhất niệm Di Đà
Trái tim Tịnh Độ nở hoa Đại Từ

Nhã Lan Thư

Con Đường Tịnh ĐộThành kính dâng lên lời cầu nguyện “Nam Mô A Di Đà Phật”, xin hồi hướng công đức tụng kinh niệm Phật đến những Bồ Tát đã vãng sanh và tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới.

Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi, sau nghi thức tụng kinh và cúng cơm cho bác, mọi người đều đứng dậy tản mác ra sân để sau đó vào dùng cơm trưa. Tôi thơ thẩn đi tới góc phòng nơi có bàn kinh sách để cho phật tử thỉnh kinh, tôi chợt thấy ở một góc bàn có cuốn sách nhỏ tựa đề “Lắng nghe tiếng hát sông Hằng” của Pháp sư Đạo Chứng được dịch thuật bởi Thích Minh Quang. Tò mò cầm lên xem tôi thật sự cãm động bởi tấm lòng từ bi chân thành của một vị bác sĩ chuyên trị ung thư, cô đã chứng kiến nổi đau khổ của nhân sinh trong cuộc hành trình vô thường của kiếp người. Sự cảm thông sâu sắc của một vị chuyên khoa đứng trước ngưỡng cửa sinh tử cũng phải cúi đầu với căn bệnh của thế kỷ mà con người chẳng may gánh chịu. Khi mà những kiến thứckinh nghiệm y khoa không thể nào xoa dịu được cơn đau đớn của thân xác và nổi niềm tuyệt vọng của bệnh nhân, cũng trong khi đó có một số hoàn cảnhthân nhângia đình người bệnh qúa mỏi mệt chán nản và sẳn sàng buông bỏ chấp nhận cầu mong giờ phút ra đi của người bệnh. Pháp sư với tấm lòng của một bồ tát đã tha thiết hướng tâm mình đến Đức A Di Đà Phật xin ngài từ bi tiếp dẩn họ về quê hương ngài, nơi cỏi tịnh độ đầy an lạc và nơi đó con người không còn thọ khổ, nơi đó con người không còn dính mắc với những nghiệp báo trói buộc con người trong thân xác vô thường tạm bợ nay còn mai mất. Nơi vùng đất an dưỡng đó con người không còn phải trôi lăn trong mạng lưới chằn chịt của luân hồi nghiệp lực khó có ngày ra khỏi. Con người đã nhờ tha lực của Đức Phật A Di Đàmười phương chư phật để có thể vãng sanh vào những đóa sen ngát hương lành mà Phật Pháp là suối nguồn hạnh phúc.

Cuốn sách nhỏ của pháp sư Đạo Chứng làm tôi xúc động mảnh liệt vì đó không phải là những câu chuyện hư cấu, mà mỗi câu chuyện là một bài học nhân sinh thật chứng từ cuộc đời mà những con người đã sống với thân bệnh và kinh nghiệm đầy đau đớn được viết ra để cho chúng ta hôm nay những người còn đang khoẻ mạnh, còn nhìn thấy trời xanh mây trắng, còn ngửi được hương thơm của hoa hồng, còn ăn những thức ăn ngon, phải bắt đầu giật mình tỉnh thức. Đó là hồi chuông vang lừng kêu gọi chúng ta hẫy quay về với chính mình, hẫy sống thật trong từng giây phút, hẫy chấp nhận cuộc đời bằng con mắt biết ơnchúng ta vẫn còn đang sống trong vòng tay thân ái của gia đìnhquyến thuộc.

Xin mỗi ngày thức dậy bằng nụ cười, tập buông bỏ những gì bất như ý vì mai nầy khi chúng ta ra đi sẻ không mang theo được gì ngoại trừ một tâm thức như như hằng sống và những nghiệp lực của chính chúng ta.

Tôi nhớ tới một bài thơ của thầy Thích Tâm Thiện:

Người từ vô tận tái sinh
Đi qua trần thế mang tình nhân gian
Rồi từ cuộc mộng vừa tan
Quê hương một độ bàng hoàng ra đi
Ngày về bạc tóc hài nhi
Nắng chiều nhẹ đỗ thầm thì trên vai
Giã từ giấc mộng thiên thai
Vô biên ngày ấy Như Lai gọi về.

Bài thơ của thầy muốn nói gì? Phải chăng chúng ta những con người ở cỏi ta bà nầy dù tóc có bạc vẩn luôn ẩn hiện hình ảnh của một hài nhi hiện diện chuẩn bị cho một cuộc tái sinh vô tận, để rồi lại tiếp nối cuộc sống trên những vùng đất nước khác, và sẽ có mộtngày cũng phải từ giã cỏi đời dù là một giấc mộng thiên thai. Ngày đó chúng ta lại quay về đâu?

Câu hỏi đó cứ lập đi lập lại cho đến một ngày tôi tiếp cận với Tịnh Độhộ niệm cho người sắp mất là một pháp môn thù thắngbản thân tôi vô cùng trân trọng cho phước duyên được đứng trước giờ sanh ly tử biệt của các vị đạo hửu và gia đình. Từ giờ phút nầy tôi xin được gọi các vị ấy là Bồ Tát, đây lại là một nhân duyên khác trong trùng trùng duyên khởi mà tôi đã nhận và học từ hai vị ni sưni sư Như Nhưni sư Từ Bình.

Trước hết tôi xin hai vị ni sư thứ lổi cho tôi khi viết về người, vì do các ni sư không muốn được nhắc tới. Do một cơ duyên tôi được biết ni sư Như Như qua điện thoại và được biết ni sư hiện tu theo Tịnh Độ. Lúc bấy giờ tôi hoàn toàn không một mẩy mây kiến thức gì về các pháp môn trong Phật giáo. Là một phật tử Việt Nam với truyền thống gia đình thờ Phật, trọng tăng, cúng bái tổ tiên và chăm sóc bố mẹ là bổn phận con cái. Tôi cũng ít khi đi chùa, lập bàn thờ tại gia, và từ nhỏ theo mẹ tụng Linh Cãm Chân Ngôn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi bé khoảng sáu hay bẩy tuổi, trong nhà có cuốn kinh tụng sám bìa nâu và trang giấy củ kỷ vàng sậm vì khói hương làm tôi đặc biệt yêu thích và thích nhất là bài sám Di Đà:

Muốn đi có một đàng nầy

Nhứt tâm niệm Phật khó gì thoát ra

Vậy khuyên phải niệm Di Đà

Hồng danh sáu chữ thật là rất cao

……..

Tôi học thuộc lòng bài sám khá dài ấy và những khi thích chí thường lấy ra ca hát om xòm, có một lần chợt nhiên tôi tự hỏi “ tại sao muốn đi có một đàng nầy? Và tại sao niệm Phật lại khó thoát ra?”

Tôi cứ mang nỗi niềm thắc mắc ấy mà không biết hỏi ai, cho tới hơn bốn mươi năm sau, khi được hầu chuyện cùng ni sư Như Như qua điện thoại, ni sư rất từ bi luôn luôn khuyên nhủ chúng tôi hẩy dốc một lòng niệm Vạn Đức Hồng Danh của A Di Đà Phật và vượt thoát ra khỏi biển sanh tử luân hồi. Lúc ấy tôi nhớ lại bài sám ngày xưa và như đốm lửa nhỏ bừng sáng lớn dần và rực rở trong tâm thức tôi. Ni sư là vị thầy gởi cho tôi rất nhiều kinh sách Tịnh Độ, qua đó tôi học được rất nhiều, và nhờ thế tôi tìm thấy hình ảnh một vị tổ sư mà tôi đã mong tìm.

Một thời gian sau đạo hửu Lisa gọi cho biết có một ni sư tới từ Đài Loan và hiện bà đang giảng pháp tại nhà sư tỷ Alice, bà đã từng tu Thiền hơn hai mươi năm, nhưng sau nầy bà tu theo Tịnh Độ và bà chuyên hộ niệm giúp người vãng sanh. Đây là một đề tài rất khó nói vì ai nghe tới đều không thích biết, thường thì trong cuộc sống ai cũng muốn vui, ít ai muốn buồn, hơn nữa lại là một đề tài rất buồn cho những người chưa hiểu gì về Tịnh Độ, nói thẳng ra là nói về sự chết, và bà đang cần một người thông dịch cho các phật tử Việt Nam có cơ hội được nghe được hiểu, vì vậy đạo hửu Ngọc đảm nhiệm phần Việt dịch. Ban đầu tôi cũng ngại đi nghe, nhưng sau khi đạo hửu Ngọc thuật lại kinh nghiệm sâu sắc sống thực của ni sư, tôi quyết định dành buổi chiều thứ sáu đến tham dự, đó là lần giảng thứ hai của ni sư cho các nhóm phật tử khác nhau. Khi tôi tới niệm Phật đường của các đạo hửu người Đài Loan thì thấy mọi người đã nghiêm chỉnh xếp hàng để chào đón vị Pháp sư. Niệm Phật đường nằm trong một khu vực toàn là văn phòng của các bác sĩ, luật sư ngoại quốc, nếu đứng ngoài nhìn vào không ai có thể ngờ có một niệm Phật đường u nhã tại đây.

Ni sư đã dùng phim “Ghost” (Linh Hồn) như là phần dẩn nhập bắt đầu của bài giảng và từ điểm đó Ni sư cho thấy con người dù ở bất cứ một tôn giáo nào một sắc dân nào khi chết đều đứng trước cảnh giới của một linh hồn đang bơ vơ bối rối vì vừa thoát ra khỏi thân xác. Nếu con người lúc còn sống đã sớm thức tỉnh để tu học, để biết rằng sự sống rất là quý báu, thân người rất hiếm được và dùng thì giờ để học hỏi quán chiếu giai đoạn cuối cùng mà kiếp nhân sinh phải đối diện thì lúc đó con người không còn sợ sệt đau khổ để vui vẻ tiến tới vùng ánh sáng Chân Thiện Mỹ, Đạo Phật Tịnh Độ đã hướng dẩn con người sống tích cực tại hiện đời trong việc hoà đồng hướng thiện buông bỏ tham ái sân hận cho kiếp sống hiện tạisẳn sàng an nhiên tự tại lúc ra đi. Trong khi đó vẩn rất từ ái không quên dẩn dắt hộ niệm những chúng sanh còn non nớt trên hành trình cuối đời. Người theo đạo Phật cũng nên biết thêm khi Đức Thích Ca Mâu Ni còn tại thế đã tuyên xưng thế giới cực lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà Phậtthù thắng hơn hết cho chúng sanh ở cỏi Ta Bà. Cũng nhờ thế Hoàng Hậu Vi Đề Hi trong bối cảnh của một thảm kịck gia đình có người con nghịch tử đã xin Phật chỉ dậy và an tâm ra đi để cuối cùng đắc qủa và Tịnh Độ là một con đường nhanh nhất có thể giúp con người chuyển phàm thành Thánh.

Những bài học sau của Ni Sư trong tuần lể bà còn ở lại tiểu bang của chúng tôi là những bài học quý giá vô cùng, bà dùng những đoạn phim của những lần hộ niệm do chính bà đảm nhiệm để dậy cho chúng tôi phải thành kính cám ơn những Bồ Tát vãng sanh, đã cho phép đem hình ảnh và giờ phút lâm chung của họ ra làm bài học sâu sắc cho chúng tôi. Mỗi lần nhắc đến họ Ni Sư luôn luôn thành kính đảnh lể. Có những Bồ Tát mang trên ngưởi những căn bệnh khổ không thế nào tà xiết được. Như một vị Bồ Tát với căn bệnh ung thư để lại những lổ hổng sâu ăn đến độ có thể nhìn thấy trong người, những lổ hổng nầy luôn luôn nhóp nhép như miệng người không ngừng nghỉ. Trong những giờ phút đau khổ. Bồ Tát ấy do một Phúc duyên được nghe đến Ni Sư và mời bà đến hộ niệm để rồi ra đi trong bình tỉnh đó là những hình ảnh cảm động đã khiến đại chúng rơi lệ.

Ni Sư đã dậy chúng tôi đức kham nhẩn vì người bệnh Ni Sư đã cúi mình thấp nhất để qua được những sự chống đối từ gia đình, từ những người con khác tôn giáo tín ngưỡng đã hết sức gây khó khăn, ngay cả vận động những đứa trẻ nhỏ ngây thơ trong việc chống báng bà. Nhưng vì lòng từ bi thương xót người bệnh yếu ớt đang trông chờ được tiếp dẩn về quê hương an lạc mà họ hằng mong ước, bà đã cúi đầu cúi đầu và dùng tấm lòng trong sáng bất vụ lợi cùng tình thương như đại hải để rồi cuối cùng họ phải cảm phục và đều đồng ý để bà hộ niệm theo lời yêu cầu của cha mẹ (đến đây tôi xin nhắc tới vì lòng tự tôn, tự ái mà có những người con hay thân nhân đã gây đau khổ vô cùng với người bệnh mà không biết rằng họ đã gieo ác nghiệp tại hiện đời).

Cẩn trọng trong từng hành động một cách trân trọng, ni sư dậy chúng tôi phài rất hết sức nhẹ nhàng, phài luôn luôn trong chánh niệm để hiểu rằng trong khoảng hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau khi mất người vảng sanh rất cần sự thanh tịnh, dù một tiếng động nhỏ, một lời nói chuyện lao xao, bước chân khẻ chạm vào thành giường, tiếng nước mở ở buồng bên cạnh v..v.. cũng làm người ra đi đau đớn vô cùng. Thế nên phải vô cùng chú ý để tránh tạo ra bất cứ khuấy động không cần thiết nào, ngoại trừ tiếng tụng kinh hộ niệm và lời khai thị giúp cho người vãng sanh sáng suốt, buông bỏ bi ai luyến ái mà cùng hòa với tấm lòng chân thành cùa những liên hửu hộ niệm để nhất tâm hướng về vô lượng quang minh cùa Đức Phật A Di Đà.

MỘT ĐẠO HỪU MAY MẮM

Có một đạo hửu đã hơn chin mươi tuổi trong những ngày đầu ni sư đến giảng dậy, cụ cố gắng nhờ con dẩn tới, cụ mang theo một bình dưỡng khí, xe đẩy, đi trong hơi thở khó khăn, nhưng cụ rất hoan hỷ được đến tu học. Chỉ vài ngày sau người con gái gọi tới yêu cầu xin ni sư đến hộ niệm vì cụ sắp ra đi. Do nhân duyên ấy ni sư phải hủy bỏ bài giảng hôm đó để đi với một số phật tử đã xin phép ni sư cho họ cùng đi hộ niệm. Vì là lần đầu đi hộ niệm nhóm Phật tử có nhiều lúng túng nhưng với tấm lòng chân thành mọi người nhất tâm hộ niệm và cụ ra đi trong cát tường viên mãn. Lần hộ niệm ấy làm ni sư rất cãm động thấy chân tình tha thiết vì người của các phật tử Việt Nam Ni Sư đã dành trọn hai tối giảng thêm về đề tài vãng sanh cho một số phật tử muốn tu học về vãng sanh Tịnh Độ, và tôi cũng có cơ duyên tham học. Mặc dầu cả ngày đã giảng pháp, Ni Sư vẩn từ hòa giảng dậy qúa nửa đêm vì thì giờ của bà ở đây không còn nhiều.

Tuần tới Ni Sư phải chuẩn bị lên đường đi Texas, nguyên nhân toàn chuyến đi nầy của ni sư bắt nguồn từ việc lo liệu của một phật tử người Đài Loan. Do vì mấy năm trước mẹ của ông ta đau nặng làm ông ấy phải thu xếp công việc về xứ chăm sóc cho mẹ. Nhờ có người giới thiệu ông tìm lên am nhỏ của Ni Sư trên núi và tha thiết mời người xuống để giúp hộ niệm cho mẹ để bà có thể ra đi trong an lành. Nhận thấy tấm lòng chí hiếu của ông, Ni Sư và người đệ tử duy nhất đã phải tới nhà của ông cùng giúp hộ niệm cho mẹ ông trong hai tháng sau đó bà cụ đã vãng sanh trong thoại tướng. Ông xin cúng dường một số tịnh tài nhưng ni sư cương quyết từ chối, bà cho biết cuộc sinh hoạt đơn giản hằng ngày của bà đã đầy đù và bà không nhận thêm bất cứ sự cúng dường nào từ việc hộ niệm.

Sau khi về lại Mỹ, ông cứ khắc khoải yêu cầu Ni Sư chấp nhận lời mời để ông có cơ hội đón Ni Sư hoằng pháp giúp cho người hửu duyên được học hỏi pháp môn vãng sanh của Tịnh Độ. Sau mấy năm cãm tấm lòng tha thiết của ông, Ni Sư phải nhín thời giờ trong lịch trình dầy đặc người nhờ hộ niệm mà qua Mỹ và trên đường hoằng pháp Ni Sư đã dừng lại tiểu bang nầy và cùng chúng tôi kết một phúc duyên vô cùng hy hửu.

Một trong những bài giảng mà chúng tôi phải phát nguyện tuân theo là “Đạo Đức của người hộ niệm”, Ni Sư chí thành khuyên bảo:

“Chúng ta khi đi làm Phật sự hộ niệm phải luôn luôn ghi khắc trong lòng rằng chúng ta là những người được ban nhận phúc duyên để đưa người ra đi, chứ chúng ta không phải là những người làm ơn cho các Bồ Tát ấy và gia đình của họ. Chúng ta phải một lòng chân thành hướng tâm thanh tịnh bình đằng nguyện cầu Đức Phật A Di Đà, chư Phật mười phươngthánh chúng tới tiếp dẩn qúy Bồ Tát ấy về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Chúng ta phải nhớ không được nhận bất cứ một khoảng tiền nào, cho dù là thức ăn, nước uống, và ngay cả lời cám ơn từ gia đình của các Bồ Tát vãng sanh. Nếu được như vậy tức là qúy đạo hửu đã đi trên con đường Tịnh Độ và qúy vị đang trả ơn Đức Phật người đã thị hiện trên thế gian nầy để đem đến cho chúng ta một pháp môn vi diệu hầu chúng ta được liểu sanh thoát tử.”

Tuy thời gian được gặp người không nhiều, nhưng ngưởi đã để lại một hình ảnh thanh cao từ tốn và an bình. Người đã trên sáu mươi, nhưng trông rất trẻ, da dẻ mịn màng sáng ánh trông như người dưới bốn mươi, giọng nói rất êm ái từ tốn và nụ cười phảng phất nét từ bi vô tận. Từ Ni sư tôi cãm nhận được một nguồn sống an lạc của một trạng thái hỷ xả viên mãn. Bà luôn nhắc nhở chúng tôi dùng lời từ ái, nói nhỏ nhẹ, hình như bà cũng đọc được trong số phật tử đến nghe bà giảng có những vấn đề trong cuộc sống gia đình gây nhiều đau khổ. Bà tránh nói thẳng chỉ hướng về mọi người và nhắc nhở trong gia đình nên tránh nói to, nên dùng ái ngữtâm từ với nhau. Chỉ vậy thôi mà bà đã đem đến sự chuyển hóa cho một số người

TRƯỚC KHI GẶP NI SƯ TỚI GIẢNG DẬY:

Trong số những người quen biết, chúng tôi có quen một vị khoa bảng thời trước của miền Nam ông lớn tuổi hơn chúng tôi rất nhiều nhưng ông coi chúng tôi như những người em nhỏ vì thế ông trở thành người anh đáng kính. Có đôi khi ông ghé nhà chơi và trong câu chuyện ông thường chỉ nhắc nhở tới mẹ và gia đình mình khi xưa ờ Việt Nam, ông cãm thấy xa lạ với con cái và cô đơn với xả hội mình đang sống. Ngày ông về hưu, ông nói ông sẻ trồng hoa xung quanh nhà để thấy hoa nở mỗi tuần khác nhau. Mùa xuân năm đó ông tới chơi nhìn hoa đào nở đỏ rực quanh vườn chúng tôi, ông rất hoan hỷ nhận mấy cành đào đem về cắm chơi. Chỉ tháng sau chúng tôi nhận được điện thoại báo ông vừa từ nhà thương về và cho biết là ung thư thời kỳ cuối, mặc dù trước đó ông rất cẩn thận năm nào cũng đi khám toàn khoa và lúc nào cũng là bảng báo kết qủa hoàn hảo. Bệnh tình của ông phát triển nhanh đến chóng mặt, ông gọi chúng tôi nói chuyện mỗi ngày, trong câu chuyện đôi khi ông rất thất vọng và luôn hỏi tại sao một người đã cẩn thận như ông và những người bạn bác sỷ đang còn làm việc tại bệnh viện lại không thể khám phá ra, để cho đến nổi ngày hôm nay khi ông tỉnh dậy mỗi sáng đều không thể tưởng tượng rằng mình mắc chứng bệnh quái ác đó và đang cận kề cửa tử. Không biết an ủi ông cách nào, tôi đứng trước tủ sách của mình để tìm một cuốn sách hay đem tới cho ông đọc, tôi chợt nhìn thấy cuốn “Niệm Phật chuyển hóa tế bào ung thư” của pháp sư Đạo Chứng. Ngay ngày hôm ấy chúng tôi đem lại cho ông. Mấy hôm sau ông gọi lại và yêu cầu tôi đọc hồng danh của đức A DI Đà Phật vào băng cho ông, vì ông muốn nghe tiếng đọc chậm rải không âm nhạc để ông có thể nhiếp tâm theo. Dỉ nhiên là tối hôm đó tôi lên đèn thấp hương và niệm 108 hồng danh của A Di Đà Phật, khi tôi đem tới vợ ông tròn xoe mắt ngạc nhiên hỏi:

Anh ấy yêu cầu thật à?

Và bà cho biết là ông không bao giờ tin tưởng vào tôn giáo, ông thường hay nói, sau nầy nếu ông có ra đi thì cấm không được mời tăng đến tụng, chỉ mở âm nhạc không cầu siêu cúng kiến gì cả. Nhưng từ sau khi ông đọc xong cuốn sách của pháp sư Đạo Chứng thì ông thay đổi mổi lần chúng tôi đến thăm ông vẩn hay tụng hồng danh Đức A Di Đà.

Ngày cuối ông ra đi trong tiếng tụng niệm của gia đình và những người bạn thân bao gồm những người bạn khác tôn giáo, mọi người đều vô cùng từ bi đã vì ông mà tụng hồng danh Đức Phật A Di Đà. Trong ngày làm lể tang cho ông bà đã mời tăng đến tụng kinh cầu siêu và đầy đủ nghi thức Phật giáo trang nghiêm thành kính.

Sau lần đó hình như tôi đã thấy được câu trả lời cho những suy tư trước kia của tôi, nhưng tôi thật sự thấu hiểu nhiều là nhờ những bài giảng của ni sư Từ Bình, từ đó tôi nhận biết lòng từ ái vô biên và niềm cảm thông sâu sắc mà người hộ niệm có thể đem tới cho gia đình, cũng như lời khai thị đã bắc nhịp cầu giao cãm giữa người hộ niệm và vị Bồ Tát đang vãng sanh. Nhờ thế lời nhắc nhở và khuyến tấn giúp người vãng sanh vững tin trong giai đoạn của thân trung ấm.

Ban hộ niệm nếu có thể nên ở cạnh vị Bồ Tát vãng sanh từ tám tiếng trở lên đến 24 tiếng là một phúc duyên lớn, sự hộ trì ấy là làn sóng từ bi đã bao bọc cũng như lời khai thị sẻ nhắc nhở rằng từ giờ phút nầy hẫy buông bỏ hẩy tháo gở những gì gút mắc, những gì giận hờn ghét bỏ. Hẩy để lại gánh nặng của kiếp người nhiều oan trái. Hẩy trút bỏ tấm thân củ kỷ bệnh tật tàn phế đó, cũng như tiền tài vật chất phù du mà nhẹ nhàng nhập vào luồng điển quang của Đức Phật A Di ĐÀ.

Một điều quan trọng trong việc khai thị rất đặc biệt vô cùng đáng kính đáng tin là lời khai thị xin oan gia trái chủ của nhiều đời trước cũng như hiện tiền hẩy cùng với vị Bồ Tát đang hấp hối hay vừa ra đi kia cùng kết thiện duyên cùng buông bỏtha thứ cho nhau. Tôi xúc động vô cùng vì trong đạo Phật đặc biệt Tịnh Độ ngay trong giờ phút cận tử nầy đã không quên vì người mà chân thành tha thiết cầu xin cho những hận thù được hóa giải. Thật sự mà nói ai đã không từng gieo thù kết óan, nếu chỉ nói trong kiếp nầy, ai đã không vì tham, sân, si, ngã, mạn, tà, kiến, chấp, thủ v.v.và v.v. đã từng cố tình hay vô tình tạo nên những đau khổ cho người và ngay cho những sinh vật sống chung quanh ta. Có những oán thù không thể giải hay khó có thể giải vẩn luôn luôn hiện diện trong tâm thức người gieo trồng hay người bị gieo trồng. Có thể vì sợ hải, vì tự ái, vì mặc cãm mà người tạo ra óan duyên chưa từng thổ lộ, và vì phước mỏng họ cũng chưa từng biết đến pháp môn sám hối. Sự che dấu đó sẻ đeo đuổi họ hết đời và nếu không giải tỏa có lẻ sẻ đeo theo họ hết kiếp nầy đến kiếp khác.

Nói đến đây tôi lại nhớ tới một câu chuyện mà một bác sỷ tâm lý và cũng là một chuyên gia nghiên cứu về tiền kiếplinh hồn đã giúp cho một bệnh nhân của ông ấy như sau:

Có một bệnh nhân bị bệnh trầm cãm ngay từ nhỏ và đến khi khôn lớn trưởng thành làm việc thành công và có gia đình như mọi người. Nhưng rất nhiều lần trong đời bà ấy đã cố gắng quyên sinh, nhưng không bao giờ thành công. Đến năm bà ta hơn năm mươi tuổi bà thật sự đau khổ vô cùng tận và không hiểu nguyên do gì gây ra nổi đau khổ đó, bà chỉ mong mình chết được để thoát khỏi những cơn sợ hải dằn vật và bóng đen của một tiềm thức kỳ bí. Một người bạn nói đến danh tiếng của vị bác sỷ tâm lý, chuyên gia nghiên cứu tiềm thức và dùng thôi miên để soi ra căn nguyên gây bệnh. Bà được giới thiệu tới gặp vị bác sỷ nầy, khi nhà tâm lý đưa bà vào sâu trong giấc ngủ và để rồi đánh thức tiềm thức của bà ta dậy, thì ngay ông cũng phải giật mình khi biết có một linh hồn khác đang trú ngụ trong đó. Linh hồn đó cho biết ông ta là một kỷ sư người Pháp rất nổi tiếng trong thế kỷ mười lăm, ông đã nhận thi công một cây cầu cho thành phố, nhưng khi cây cầu chưa xây xong thì bị xập đổ kéo theo nhiều người chết, vì thế ông bị kết án tử hình, bị người dân ném đá, nguyền rủa phỉ nhổ, và xác bị treo ngoài thành trong nhiều ngày. Sự thất bại của ông làm gia đình ông mất danh dự, bố mẹ anh em dòng họ đều bị vạ lây, thế nên người thân giận dử và nguyền rủa ông. Nhưng điều đáng nói ở đây, ông không phãi là người tính sai trong công việc, nhưng vì sự tham nhũng trong công đoạn xây cất, cắt giảm vật liệu và những xử lý vi phạm của những người có quyền trên ông đã tạo nên thảm trạng trên. Những người nầy cấu kếtlập thành một hội đồng xử án gồm mười người và để tránh tội họ đã dồn tất cả tội lên người vị kỷ sư đáng thương nọ. Anh đã chết trong hận thù tức tưởi, và trước khi nhắm mắt lìa đời anh nguyền sẻ theo đuổi những kẻ hại anh để cho họ sẻ bị đau khổ đến sống không được và chết cũng không xong. Trong những lần thôi miên sau anh cho biết anh đã trải qua chín kiếp theo đuổi từng người một trong tập đoàn xử án khi xưa, anh đã trả thù họ tàn khốc cho dù họ đã đầu thai qua những quốc gia khác và thành những dân tộc khác. Anh cho biết vị nữ thân chủ nầy là ông thẩm phán cuối cùng còn xót lại trong hội đồng của thế kỷ xưa, là một trong những người biết rỏ anh vô tội nhưng vẩn lạnh lùng tuyên án anh vì thế anh không thể nào tha thứ. Anh cho biết anh chính là người gây ra nổi bất an đau khổ cho nữ bệnh nhân ấy, đã làm cho bà ta không sống được mà cũng không chết được để trả thù mối hận tiền kiếp nọ. Sau khi nghe hết câu chuyện vị bác sỷ trầm ngâm hồi lâu và ông chân thành hỏi rằng:

Nếu anh đã trải qua nhiều thế kỷ lang thang qua nhiều tiền kiếp để đeo đuổi mối thù đó, vậy anh có mệt không? Anh có từng bao giờ chán nản không?

Linh hồn người kỷ sư trả lời:

Đúng vậy nhưng vì trong nhiều kiếp tôi đã theo đuổi duy nhất một mục đích đó, vậy bây giờ tôi buông bỏ hết tôi biết làm gì nữa và tôi sẻ ra sao? Tôi rất cô đơn và sợ hải.

Vị bác sỷ hỏi tiếp:

Nếu vậy như anh nói khi anh chết hầu như mọi người vây quanh anh đều đã khinh ghét, hận thù, chê trách anh, ngay cả thân nhân, vậy anh thử nghĩ có ai là người thương yêu anh còn xót lại không?

Linh hồn vị kỷ sư nói:

Còn có một người đó là mẹ tôi, bà đã khóc rất nhiều, bà che dấu gia đình và hằng cầu nguyện cho linh hồn tôi không bị đọa địa ngục, bà là người thật sự thương yêu tôi.

Vị bác sỷ hỏi tiếp:

Thế hiện giờ anh có biết bà ấy còn trong thế giới linh hồn hay không?

Anh ta trả lời:

Vẩn còn và bà vẩn thường theo dỏi tôi, nhưng vì tôi bận theo đuổi mục tiêu trả thù nên tôi chưa bao giờ thực sự gặp mẹ tôi trong cỏi linh hồn.

Vị bác sỷ tiếp tục hỏi:

Nếu vậy anh có muốn tôi và anh chúng ta cùng cầu nguyện để bà tới đây đưa anh đi đến chốn bình an khác không, ở đó anh có thể hưởng nguồn hạnh phúc yên lành mà anh đã không có từ lâu.

Vị kỷchấp thuận. Và sau khi nhà bác sỷ bàn với thân chủ, người nử bệnh nhân đồng ý cùng làm một lể cầu hồn do chính bà ấy cầu xin sự thứ lổi thì vị kỷ sư xuất hồn ra khỏi người nử bệnh nhân, nói cho biết anh đã thấy mẹ anh đến trong một vùng ánh sáng tươi đẹp, mẹ anh đã ôm lấy anh như khi anh còn bé. Anh cảm thấy vô cùng hạnh phúchận thù đã theo anh nhiều thế kỷ giờ đây đã tiêu tan hết. Khi đó người nữ bệnh nhân đã trở lại cuộc sống bình thường và bà cho biết chưa bao giờcảm thấy an lạcsung sướng như bây giờ.

Câu chuyện trên được viết thành sách nhân một lần tôi kiếm thấy trên kệ của thư viện một trường đại học ở mục tâm lý chuyên nghành y khoa. Tôi đã từng ngạc nhiên sau khi đọc xong cuốn sách vì bất ngờ ở một xả hội văn minh duy lý lại có những sự kiện như trên.

Sau nầy tôi được biết trong Tịnh Độ có phần khai thị cho oan gia trái chủ tôi thật sự rúng động đến tâm can, không ngờ đạo Phật đã đi một bước đi vĩ đại từ ngàn năm xưa mà ngày nay khoa tâm lý hiện đại của thế kỷ 20 mới bắt đầu tìm hiểu. Đạo Phật đã đưa ra một đáp án tuyệt vời từ bi để giải trừ những oan khiên mà trong thế giới của linh hồn kẻ mất rồi vẩn mãi mãi trầm luân trong biển khổ.

Viết đến đây tôi dưng dưng tràn đầy niềm xúc cảm dâng trào chấp tay trong cỏi lòng thành kính vô biên nguyện cầu hồng danh Đức Phật A Di Đà, và linh cảm như thấy hàng vạn đóa sen đủ mầu sắc lóng lánh từ từ nở ra và rải hương thơm tỏa ngát trong vô cùng vô tận , bao la như lòng từ ái của chư Phật mãi mãi thường trụ trong thế gian nầy và trong tam thiên đại thiên thế giới, đâu đây đang vang rền lời kinh linh diệu để thức tỉnh những chúng sinh vô tình cho đến hửu tình còn trầm luân trong nghiệp quả.

Ái hà thiên xích lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Dục thoát luân hồi khổ
Tảo cấp niệm Di Đà
Sông ái dài muôn dặm
Biển khổ sóng chập chùng
Muốn thoát luân hồi khổ
Mau mau niệm Di Đà

VI DIỆU CỦA PHÁP HỘ NIỆM:

(còn tiếp)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37935)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19674)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18792)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14366)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20188)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9570)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14428)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35682)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10714)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19793)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23286)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13421)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10802)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20313)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10671)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10028)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14937)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17762)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17687)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13245)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31249)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25871)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14038)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17577)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11037)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12351)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10521)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12336)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11833)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9672)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12409)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9256)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8536)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10008)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9802)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12102)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14533)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9950)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11252)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11039)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14183)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9968)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15285)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13153)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23176)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24124)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12673)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15507)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17878)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15150)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16632)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16217)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17757)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11670)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11687)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17937)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10863)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10563)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11403)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12134)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11102)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36490)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9016)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9736)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34799)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17342)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10285)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10526)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12246)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13713)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14744)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9210)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24947)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11701)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10372)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 16025)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15650)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14595)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13072)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12509)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14645)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18435)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9616)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18612)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18686)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19126)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18944)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11871)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13401)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48037)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11119)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13619)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13104)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11155)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12631)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11096)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31881)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11743)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
(Xem: 10179)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant